Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

72. Kinh Dạy Vacchagotta Về Lửa

19/05/202010:33(Xem: 11789)
72. Kinh Dạy Vacchagotta Về Lửa

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



72. Kinh Dạy VACCHAGOTTA về LỬA
(Aggivacchagotta sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ
Sa-Vát-Thí – Xá- Vệ – trú an  (1)
              Tại nơi Tinh Xá Kỳ Hoàn  (1)
       Chê-Tá-Va-Ná – với hàng Chúng Tăng.
          Cấp Cô Độc, thiện nhân Trưởng-giả
          Tức A-Ná-Tha-Pin-Đí-Ka  (1)
              Dâng cúng đến Phật & Tăng-Già
       Có nơi hoằng Pháp cùng là Thiền-na. 
 
          Lúc bấy giờ, Vách-Cha-Gốt-Tá  (2)
          Là một gã ngoại đạo du phương
              Đến gặp Đại Giác Pháp Vương
    ______________________________
 
(1) : Thành Xá-Vệ  – Savatthi  – là một trong 6 thành phố thương
    mại lớn thời Đức Phật , được ghi trong kinh điển :   1) Campà
   (Chiêm-Bà),  2) Ràjagaha (Vương Xá),  3) Sàvatthi  (Xá Vệ),  4)
   Sàketa (Sa-Kỳ), 5) Kosambi (Kiều-Thưởng-Di hay Câu-Diệm-Bi)
   6) Bàrànasi  (Ba-La-Nại).
     Thành Xá-Vệ có 2 Tinh Xá lớn : Tinh Xá Kỳ Viên hay Kỳ Hoàn 
  (Jetavanavihàra) do ông Cấp Cô Độc (Anathapindika) dâng cúng
   và Tinh Xá Đông Các hay Đông Phương (Pubbàrama ) do bà Tỳ 
   Xá-Khư Lộc Mẫu (Visakha Migaramata ) dâng cúng .
    Thời Phật, Xá Vệ là kinh đô của Xứ Kosala (Kiều-Tất-La) thuộc
   triều Vua Ba-Tư-Nặc (Pasenadi ) là một vị Quốc vương Phật tử
   thuần thành, hết lòng ủng hộ Phật Pháp .
(2) : Du sĩ ngoại đạo tên Vacchagotta .
Trung Bộ (T.2) Kinh 72 : VACCHAGOTTA về LỬA * MLH –  480
 
       Nói lời chào hỏi thông thường, xã giao,
          Sau khi nói lời chào thân thiện
          Ông tùy tiện ngồi xuống một bên,
              Hướng Phật, ông đã thưa lên :
 
 – “ Kính bạch Tôn Giả ! Dựa trên thực thà,
          Phải chăng Gô-Ta-Ma Tôn-giả
          Có tri kiến và đã nói ngay :
 ‘Thế giới là thường trú’ đây,
       Như vậy là đúng, ngoài đây sai rồi ? ”.
 
    – “ Này Vách-Chá ! Mọi thời giảng rõ
          Ta không có tri kiến như vầy :
             ‘Thế giới là thường trú’ đây,
       Như vậy là đúng, ngoài đây sai lầm ”.    
 
    – “ Bạch Tôn-giả ! Phải chăng Ngài hiện
          Có tri kiến : ‘Thế giới hữu biên’,
              Hay ‘Thế giới là vô biên’,
       Như vậy là đúng, nghịch liền là sai ? ”.
 
    – “ Này Vách-Chá ! Như Lai nói rõ : 
          Ta không có tri kiến nêu ra :
            ‘Thế giới hữu biên’, hay là
      ‘Thế giới này thật chính là vô biên ”.     
 
    – “ Bạch Tôn Giả ! Hiện tiền Ngài có
          Tri kiến và nêu rõ đồng thời :
            ‘Sinh mạng & thân thể một thôi !’
      ‘Sinh mạng & thân thể đó thời khác xa’.
          Như vậy đúng, ngoài ra sai cả ? ”.
 
    – “ Này Vách-Chá ! Hãy hiểu tận tường 
              Như Lai không có chủ trương     
Tri kiến như vậy. Khôn lường nguy tai ! ”.
Trung Bộ (T.2) Kinh 72 : VACCHAGOTTA về LỬA * MLH –  481
 
     – “ Phải chăng Ngài tri kiến nêu rõ :
         ‘Như Lai có tồn tại’, hay là
             ‘Như Lai không tồn tại’ hoài       
Sau khi đã chết. Như vầy chánh chân,
          Còn ngoài ra cho rằng hư vọng ? ”.
 
    – “ Này Vách-Cha ! Đừng phỏng đoán là   
              Ta có tri kiến nêu ra
       Như ông vừa nói. Thật là điều sai ! ”.
 
     – “ Tôn Giả ! Phải chăng Ngài tri kiến
         ‘Như Lai hiện tồn tại’, cũng đồng
‘Không tồn tại khi chết xong’,
      ‘Ta không tồn tại & không không còn gì’,
Ngay sau khi Như Lai thân hoại.
          Như vậy đúng, trái lại là sai ? ”. 
 
        – “ Vách-Cha-Gốt-Tá ! Như Lai
       Không có tri kiến như vầy nêu ra ”.
 
     – “ Tôn Giả Gô-Ta-Ma ! Sao vậy ?   
          Khi được hỏi về mấy điều này 
Thì Ngài đều phủ định ngay.
       Có gì nguy hại mà Ngài trước sau
          Không chấp nhận điều nào tri kiến
          Trên phương diện câu hỏi đặt ra ? ”.
 
        – “ Này ông Vách-Chá-Gốt-Ta ! 
       Nghĩ : ‘Thế giới thường trú’ ; là ‘hữu biên’,
          Là ‘vô biên’ ; ‘vô thường’… như thế
        ‘Sinh mạng và thân thể một thôi’.
             ‘Như Lai sau khi chết rồi
       Có & không tồn tại’ trên đời ..vân..vân..
 
          Ta nói rằng : Đều là tà kiến
Trung Bộ (T.2) Kinh 72 : VACCHAGOTTA về LỬA * MLH –  482
 
          Kiến trù lâm hay kiến hoang vu
Là kiến tranh chấp, mịt mù
       Hý luận, kiết phược đặc thù kiến đây.
          Những kiến này đi đôi với khổ,
          Với tàn hại mọi chỗ cấp kỳ,
Não hại, nhiệt não đồng thì.
       Nó không hướng đến yểm ly hoàn toàn
          Không ly tham, tịnh an, diệt khổ,
          Không thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
 
              Vách-Chá ! Ta thấy rõ ràng
       Có sự nguy hiểm, sự tàn hại ngay,
          Nên Như Lai hoàn toàn phủ nhận
          Không chấp nhận những tri kiến tà ”. 
 
        – “ Nhưng Tôn Giả Gô-Ta-Ma !
       Vậy Tôn Giả có những tà kiến không ? ”.
 
    – “ Này Vách-Chá ! Thuộc trong tà kiến
          Được Như Lai vĩnh viễn đoạn trừ
              Những điều Như Lai thấy như :
      ‘Đây Sắc, sắc tập, chẳng trừ sắc tiêu.
         ‘Đây là Thọ, đây điều thọ tập,
          Thọ diệt’. Tưởng, tưởng tập, diệt ngay.
             ‘Hành, hành tập, hành diệt’ này
      ‘Thức, thức tập, thức diệt đây, hiểu rành.
 
          Do vậy, Ta nói rằng với việc     
          Trừ, ly tham, đoạn diệt, xả ly,
              Vứt bỏ các ảo tưởng chi
       Của hôn mê, của mạn-tùy-miên sâu
          Của biết bao ngã kiến, sở kiến
          Trong Như Lai hiển hiện Chân như
              Giải thoát, chấp thủ đoạn trừ ”.        
Trung Bộ (T.2) Kinh 72 : VACCHAGOTTA về LỬA * MLH –  483
 
 – “ Một Tỷ Kheo được tâm tư duyên vào
          Giải thoát, vậy chỗ nào sanh khởi ? ”.
 
– “ Không áp dụng sanh khởi, Vách-Cha ! ”.   
 
        – “ Thưa Tôn Giả Gô-Ta-Ma !
Vị ấy không sanh khởi mà, đúng không ? ”.
 
    – “ Không áp dụng điều không sanh khởi ”.
 
– “ Vậy vị ấy sanh khởi, đồng thời
              Cũng không sanh khởi trên đời ? ”.
 
  – “ Vách-Chá ! Không áp dụng nơi điều này ”.
 
    – “ Vậy vị đây thì không sanh khởi
          Và không không sanh khởi như vầy ? ”.
 
       – “ Không có áp dụng điều này ”.
 
 – “ Tôn Giả ! Khi được hỏi ngay những điều
Về sanh khởi, Ngài đều phủ định.
          Tôi trở thành lính quýnh vô tri,
              Trở thành mê mờ ngu si
Về điểm này. Và do vì điều đây
          Sự tin tưởng nơi Ngài từ trước
          Bởi các cuộc đàm thoại mỗi thời,
              Nay đã biến mất nơi tôi ”. 
 
 – “ Này Vách-Cha-Gốt-Tá ! Thôi vừa rồi !
          Sự vô tri đồng thời mê muội
          Của chính ông nhăng cuội còn dài.
 
           * Thật sâu kín là pháp này
       Khó thấy, khó giác ngộ hay luận bàn,
          Thù thắng và tịnh an, tế nhị
          Chỉ bậc Trí mới hiểu mà thôi !
              Thật rất khó cho ông rồi ! 
Trung Bộ (T.2) Kinh 72 : VACCHAGOTTA về LỬA * MLH –  484
 
       Để ông có thể hiểu nơi pháp này,
          Khi ông đây thuộc tri kiến khác,
          Kham nhẫn khác, lý tưởng khác xa,
              Đạo Sư, hành trì khác xa.
       Nay Ta hỏi lại ông qua chuyện này,
Hãy đáp ngay nếu ông kham nhẫn.
 
          Này Vách-Chá ! Thẳng thắn nghĩ sao
              Nếu ngọn lửa cháy hỏa hào
       Trước mặt, ông có biết vào việc đây :
        ‘ Ngọn lửa trước mặt này cháy đỏ ? ”.
 
     – “ Nếu ngọn lửa cháy đỏ trước tôi
              Tôi có biết : Lửa cháy rồi ! ”.
 
 – “ Vách-Cha ! Nhưng nếu có người hỏi ông :
         ‘Ngọn lửa trước mặt ông cháy đỏ
          Do duyên gì cháy đỏ như vầy ?’
              Thì ông trả lời sao đây ? ”.
 
 – “ Thưa Tôn Giả ! Tôi đáp ngay một hồi :
         ‘Ngọn lửa trước mặt tôi cháy đỏ
          Do nhiên liệu, củi, cỏ mà ra ”.
 
       – “ Này ông Vách-Chá-Gốt-Ta !
       Nếu lửa bị tắt do là cuồng phong
          Trước mặt ông, thì ông có biết ? ”.
 
    – “ Thưa Tôn Giả ! Tôi biết tức thì  
              Nếu ngọn lửa bị tắt đi ”.   
 
 – “ Vách-Chá ! Nếu kẻ hiếu kỳ hỏi ông :
         ‘Lửa tắt trước mặt ông như vậy
           Thì lửa ấy đi về nơi đâu ?    
              Đông, Tây, Nam, Bắc phương nào ?
       Ông được hỏi vậy, ra sao đáp rày ? ”.
Trung Bộ (T.2) Kinh 72 : VACCHAGOTTA về LỬA * MLH –  485
 
    – “ Không có thể điều này áp dụng
          Vì rằng đúng lửa cháy do duyên
              Nhiên liệu, cỏ, củi hiện tiền
       Không có tiếp nối, lửa liền tắt đi ”.
 
    – “ Này Vách-Chá ! Cũng y như vậy
          Do Sắc pháp, nhờ đấy người ta
              Nhận biết một đấng Phật Đà
       Có thể nhận biết ; trải qua đoạn trừ,
          Trốc tận rễ ví như cắt rễ
          Cây Sa-la không thể sống lâu
Không thể sanh khởi về sau.
 
       Giải thoát khỏi cái gọi mau : ‘sắc’ này
          Rất khó khăn và gay vô kể
Khó dò như đáy bể thâm sâu.
Khởi lên, không áp dụng vào.
       Không khởi, không áp dụng nào ở trong.
          Khởi & không khởi lên, không áp dụng.
          Không & không không khởi, cũng đồng thì
Đều không có áp dụng gì.
 
       Thọ, Tưởng, Hành, Thức pháp ni cũng vầy,
          Nhờ vào ngũ uẩn này, nhận biết :
          Phật có thể nhận biết được ngay,
              Ngũ uẩn đã được Như Lai
       Đoạn diệt, cắt đứt rễ đây mất rồi
          Như cây thời không sanh lại được
          Không thể được sanh khởi tương lai.
 
              Giải thoát năm cái gọi đây :
       Thọ, Tưởng, Hành, Thức như vầy trước sau
          Rất khó khăn, thâm sâu vô kể           
          Khó dò như đáy bể rất sâu
Trung Bộ (T.2) Kinh 72 : VACCHAGOTTA về LỬA * MLH –  486
 
Khởi lên, không áp dụng vào.
       Không khởi, không áp dụng nào ở trong.
          Khởi & không khởi lên, không áp dụng.
          Không & không không khởi, cũng đồng thì
Đều không có áp dụng gì.
    ( Vách-Cha-Gốt-Tá ! Phải tri tường vầy ! ”. )
 
          Nghe từ Ngài Thế Tôn chỉ giáo
          Vị ngoại đạo Vách-Chá-Gốt-Ta
              Liền thưa với đấng Phật Đà :
  – “ Thưa Tôn Giả Gô-Ta-Ma ! Thật là
          Như một cây Sa-la lớn, thẳng
          Không xa làng, thị trấn, đô thành
              Vô thường, rơi rụng lá cành
       Đọt non, vỏ, giác cây đành rụng rơi,
Cuối cùng thời lõi cây còn lại.
 
          Cũng như vậy, lời nói của Ngài 
              Chỉ còn lại thuần lõi cây
       Lời nói thuần tịnh, chứa đầy tinh hoa.
          Tôn Giả Gô-Ta-Ma ! Thật vậy
          Những lời ấy mầu nhiệm, lành thay !
              Thưa Tôn Giả ! Vi diệu thay ! 
       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm
          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối
          Đem đèn sáng vào tối như bưng
              Để ai có mắt mở bừng
       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.
*
Cũng như vậy, nhiệm mầu Chánh Pháp
          Được Tôn Giả phân tách, trình bày
              Con xin quy ngưỡng từ nay
Quy y đức Phật, nương ngay Pháp mầu,
Trung Bộ (T.2) Kinh 72 : VACCHAGOTTA về LỬA * MLH –  487
 
          Quy y Tăng thanh cao đức cả
          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn
              Mong Thế Tôn nhận cho con
Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên
          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục
Kể từ nay đến lúc mạng chung.
              Nguyện nương theo đấng Đại Hùng
       Thực hành giáo pháp muôn trùng cao thâm ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
 
*  
*   *
 
 
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 72  :  Kinh dạy  VACCHAGOTTA
về  LỬA  –   AGGIVACCHAGOTTA  Sutta  )
 
 

DÂNG HOA - PUPPHAPÙJÀ

 

         Pùjemi  Buddham  kusumenanena

        Punnena me tena ca hotu mokkham

        Puppham milàyàti yathà idam me

        Kàyo tathà yàti vinàsabhavam .

 

        Pùjemi  Dhammam  kusumenanena

        Punnena me tena ca hotu mokkham

        Puppham milàyàti yathà idam me

        Kàyo tathà yàti vinàsabhavam .

 

        Pùjemi  Sangham  kusumenanena

        Punnena me tena ca hotu mokkham

        Puppham milàyàti yathà idam me

        Kàyo tathà yàti vinàsabhavam .

 

        Dâng hoa cúng đến Phật-Đà

    ... Dâng hoa cúng đến Đạt-Ma

    ... Dâng hoa cúng đến Tăng-Già

        Nguyện mau giải thoát sinh, già khổ đau

        Hoa tươi nhưng sẽ úa xàu

        Tấm thân tứ đại khỏi sao điêu tàn ! 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2011(Xem: 3232)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
15/01/2011(Xem: 3355)
Suy cho cùng, kiếp người hay cuộc tu chỉ là những lần ghé lại đâu đó. Nói ở nghĩa nào thì người ta không ai có thể chung thân với một thứ gì miên viễn. Mình không bỏ nó thì nó cũng xa mình. Ta có thể mất nó, vì nhàm chán hay không còn cơ hội nắm níu. Và cái mà ta yêu nhất cũng có nhiều kiểu bỏ ta ở lại mà đi. Hồi xưa bắt chước theo kinh mà nói thì cái gì cũng là bè cỏ qua sông... Giờ có thêm tí tuổi, nhiều lúc nằm ngẫm nghĩ một mình, thấy câu nói ví von đó hay quá chừng, hay đáo để.
14/01/2011(Xem: 3801)
Cách đây hơn một tuần, trong lúc chuẩn bị nấu nước pha trà buổi sáng, tự dưng lòng tôi nhớ quay quắt những chén trà năm xưa tôi đã từng chia sẻ với Thầy Tâm Phương trong những buổi sáng tĩnh lặng tại ngôi chùa nghèo Quảng Đức ở Broadmeadows. Tôi đã vội gọi Thầy Tâm Phương và hết sức may mắn Thầy vẫn còn nhớ tên tôi..dù rằng Thầy đã quên mất giọng nói quen thuộc của tôi rồi! Thầy rất mừng vì nghe được qua một số Phật tử biết cuộc sống của tôi lúc nầy an nhàn lắm. Tôi thưa với Thầy về cuộc đời hưu của tôi mấy năm gần đây cũng như nói với Thầy là tôi thèm vô cùng được cùng Thầy nhâm nhi lại những chén trà xưa!
14/01/2011(Xem: 3355)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Ba mươi năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của ngày mới lớn. Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm dù đã trải qua bao tháng năm cũng chẳng rộng lớn gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên quang cảnh càng hiu hắt thê lương.
07/01/2011(Xem: 3550)
Chuyện Tiền thân Bahiya (Jàtaka 420) kể lại rằng : “Thuở xưa, khi vua Bramadatta trị vì ở Ba-la-nai, Bồ-tát là một vị đại thần của triều đình. Có một nữ nhân thôn quê thân thể béo mập, ăn mặc lôi thôi, làm công ăn lương, đang đi ngang qua gần sân của nhà vua, cảm thấy thân bị bức bách ngồi xuống lấy áo đắp che thân, giải toả sự bức bách của thân và nhanh nhẹn đứng dậy”.
06/01/2011(Xem: 6570)
Tôi và chị chưa hề một lần gây thù chuốc oán với nhau. Vậy mà không hiểu sao ngay từ ngày chạm mặt đầu tiên ở trụ sở Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh, bỗng dưng tôi thấy ghét chị thậm tệ. Và nhìn ánh mắt, vầng trán nhăn nhíu, điệu bộ của chị khi đứng gần tôi vào lúc cuộc họp chuẩn bị khai mạc, tôi cảm nhận, thấy biết được chắc chắn rằng chị cũng chẳng ưa gì tôi, có thể là ghét cay ghét đắng tôi, còn hơn cái mức mà tôi ghét chị. Sao kỳ vậy? Đố kỵ tài năng sao? Không phải.
05/01/2011(Xem: 3264)
Tôi sinh ra và trải qua những ngày tuổi thơ ở Huế. Như vậy cũng đủ để tôi tự hào đã chia sẻ cùng Huế với tất cả những thủy chung của lòng mình. Thế rồi, tôi cũng phải xa Huế đã 30 năm, quê hương đó vẫn rạng ngời trong tâm tưởng. Huế dấu yêu ơi! có bao nhiêu điều phải nhớ: thời thơ ấu ấm áp trôi đi, tuổi học trò thần tiên trong ngôi trường màu hồng ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm cùng với dấu chân của những chàng trai thích đón đưa mỗi khi tan trường. Tôi với Huế biết bao tình thương mến, mỗi con đường, mỗi dòng sông, núi đồi, lăng tẩm, thành quách, chùa chiền là của Huế, là của tôi... Mặc dầu phải tất tả trong dòng đời xuôi ngược và biết rằng Huế là xứ sở thật kỳ, ở thì có điều không ưa nhưng đi xa thì lại nhớ, trong tôi vẫn chan chứa nỗi niềm với Huế. Nói như ai đó: "nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ Huế", nỗi nhớ thấm vào máu thịt, sâu lắng vào tâm hồn của những kẻ tha hương lòng vẫn bùi ngùi mỗi khi nhớ đến và chỉ muốn quay về!
04/01/2011(Xem: 4023)
Bạt: Bài viết “Phật giáo, một sự thực tập” dưới đây là bài đầu tiên trong tập hợp năm bài viết đã được phổ biến trên nguyệt san Triết học (Filosofie), 2004-2005. Đây là những tiểu luận về Phật giáo nhìn từ phương Tây, được viết từ bối cảnh của một truyền thống Phật giáo rất mới, được gọi là Phật giáo Tây phương. Tác giả, tiến sĩ Edel Maex là một nhà tâm lý trị liệu làm việc ở bệnh viện Middelheim tại Antwerpen, Bỉ. Ông là một trong những người sáng lập và ở trong ban điều hành của Trường Triết học Tỉ giảo (School voor comparatieve filosofie) ở Antwerpen. Ông là một người thực tập Thiền.
20/12/2010(Xem: 9782)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]