Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

124. Kinh Bạc-Câu-La

19/05/202011:31(Xem: 9017)
124. Kinh Bạc-Câu-La

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


124. Kinh BẠC-CÂU-LA

( Bakkula sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Bạc-Câu-La Tôn-giả  (1)

          Trú Vương-Xá – Rá-Chá-Ga-Ha  (2)

              Tinh Xá Vê-Lú-Va-Na  (2)

      (Trúc Lâm Tinh Xá cũng là nơi đây)

          Gần nơi này nuôi nhiều sóc lạ

         (Ka-Lanh-Đá-Ka-Ní-Vá-Pa). (3)

              Vị lõa thể Káp-Sa-Pa  (4)  

       Bạn cũ ngài Bạc-Câu-La, khi mà

          Tôn-giả hãy còn là Cư Sĩ.

 

          Káp-Sa-Pá trực chỉ đến nơi

              Trú xứ Tôn-giả. Gặp rồi

       Nói với Tôn-giả những lời hỏi thăm

          Lời chào đón trong tầm thân hữu,

          Chúc thành tựu với cách xã giao,

              Rồi ông ta liền ngồi vào

       Một bên Tôn-giả, mở đầu hỏi qua :

 

    – “ Hiền-giả Bạc-Câu-La ! Từ trước

    ______________________________

 

(1) : Tôn-giả Bakkula – Bạc-Câu-La – là vị Thánh Tăng  đặc biệt

    xuất gia năm 80 tuổi. Do nỗ lực Thiền quán nên chỉ sau 7 ngày

   đã đắc Thánh quả A-La-Hán. Ngài được tôn xưng là vị Đệ Nhất

   Vô Bệnh. Ngài nhập diệt vào năm 160 tuổi, với 80 Hạ-lạp.

(2) : Tinh Xá Trúc Lâm – Veluvana-Vihàra, gần Thành Vương Xá

   (Rajagaha) do Vua Tần-Bà-Sa-La (Bimbisara) dâng lên Đức 

   Phật. Đây là ngôi Tinh Xá đầu tiên kể từ khi Phật thành đạo.

(3) : Nơi nuôi sóc Kalandakanivapa.            (4) : Vị Kassapa.

 

          Bạn xuất gia đã được bao năm ? ”.

 

        – “ Đã trải qua tám mươi năm

       Chánh Pháp cao thượng tôi tầm, xuất gia ”.

 

     – “ Hiền-giả Bạc-Câu-La ! Như vậy

          Trong tám mươi năm ấy, bao lần

              Bạn hành dâm dục tự thân  “.

 

 – “ Này Káp-Sa-Pá ! Trong phần hỏi đây

          Chớ có hỏi tôi đây như vậy

          Hãy hỏi rằng : ‘Từng ấy thời gian

              Hiền-giả đã bao nhiêu lần

       Khởi lên dục tưởng chẳng chân chánh gì ? ”.

 

    – “ Bạc-Câu-La ! Vậy thì Hiền-giả

          Bao nhiêu lần ông đã khởi ra

              Dục tưởng bất chánh ố tà ? ”.

 

 – “ Này Káp-Sa-Pá ! Xuất gia đến giờ

          Sự thật không bao giờ dục tưởng

          Đã khởi lên, trưởng dưỡng trong tôi ”.

 

        – “ Bạn Bạc-Câu-La ! Vậy thời

       Việc chưa từng có trong đời xuất gia

          Của vị Bạc-Câu-La, hy hữu !

          Tôi thọ trì thành tựu của ngài ”.

 

        – “ Trong suốt tám mươi năm này

       Tôi không nhận thấy hiện hay âm thầm

          Sân & hại-tưởng, dục tầm nào khởi ”.

 

    – “ Tôn-giả ! Với sự việc như vầy

              Suốt trong tám mươi năm này

       Tôn-giả chẳng có khởi rày hại & sân &

          Không khởi phần dục tầm cố hữu

          Thật hy hữu ! Chưa từng có vầy !

 

              Tôi thọ trì sự việc này ”.

 

 – “ Káp-Sá-Pá ! Thời gian dài xuất gia

          Tôi không có nhận qua y áo

          Của Cư-sĩ thuần đạo cúng dàng.

              Trong tám mươi năm, hoàn toàn

       Tôi không may, cắt y bằng dao, kim,

          Tôi cũng không kiếm tìm thuốc nhuộm

          Để nấu nhuộm về bao loại y.

              Không thực hiện sau hạ kỳ

       Thọ Ka-Thi-Ná vào thì dâng y.

          Cũng không có may y, thọ lãnh

          Cho các đồng-phạm-hạnh trong Tăng.

              Không có nhận lời mời ăn,

       Khởi tâm mong được mời ăn trong nhà,

          Tám mươi năm xuất gia, không có

          Ngồi trong nhà, nhìn ngó nữ nhân,

              Không thuyết pháp cho nữ nhân

       Dù một bài kệ hay phần một câu.

          Cũng không có đi vào phòng xá

          Tỷ Kheo Ni, hoặc giả một thì

              Thuyết pháp cho Tỷ Kheo Ni,

       Cho học-pháp nữ, Sa-di Ni nào ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Với bao điều đó

          Hy hữu, chưa từng có của ngài,

              Tôi thọ trì sự việc này ”. 

 

 – “ Hiền-giả ! Tám mươi năm dài trải qua

          Từ khi tôi xuất gia, phòng hộ

          Chưa làm Thầy Tế Độ cho ai,

              Chưa truyền đại-giới cho ai,

       Chưa nhận Y-chỉ cho ai bao giờ.

          Không bao giờ để Sa-di trẻ

          Hầu hạ mình vì lẽ hạ cao.

              Không tắm trong nhà tắm nào

       Không dùng bột Chun-Na vào tắm xoa.

          Không nhờ qua các đồng-phạm-hạnh

          Xoa bóp mạnh chân tay của mình,

              Không có ‘bệnh hoạn’ phát sinh

       Dầu là chốc lát. Không gìn giữ qua

          Các y-dược dù là miếng nhỏ

          A-Li-Lặc cây đó cắt ra,

             (Ha-Ri-Tá-Ki-Khanh-Đa)      ( Haritakikhanda )

       Không dùng tấm gỗ để mà dựa đây,

          Không nằm dài xuống để mà ngủ

          Không an cư trú xứ gần làng ”.

 

       – “ Vì rằng Tôn-giả hoàn toàn

       Tám mươi năm đã không màng thực thi

          Những điều dù không phi chánh pháp

          Nhưng thích hạp cho hạnh đầu đà.

              Hy hữu ngài Bạc-Câu-La !

       Sự chưa từng thấy xảy ra của ngài ”.

 

    – “ Vừa đúng trong bảy ngày ròng rã

          Còn uế nhiễm, tôi đã ăn vào

              Đồ ăn nội địa phần nào

       Đến ngày thứ tám, thanh cao khởi liền

          Chánh trí thật vững bền, an lạc ”.

 

    – “ Vì rằng Tôn-giả Bạc-Câu-La

              Chánh trí đã được khởi ra

       Một sự hy hữu, thật là diệu vi !

          Chưa từng có của vì chí thiện

          Trước sự kiện Tôn-giả thực hành.

               Tôi xin thọ trì tịnh thanh,

       Và xin Tôn-giả lòng lành giúp tôi

          Được xuất gia ở nơi Pháp & Luật

          Của Đức Phật vô lượng Trí Bi,

              Thọ Cụ-túc-giới, hành trì ”.

 

       Rồi lõa thể đạt những gì ước mong     

          Tân Tỷ Kheo cố công, cần mẫn

          Không phóng dật, vượt thắng, nhiệt tâm

              Độc cư rừng vắng âm thầm

       Không bao lâu đã chứng tầm pháp siêu,

          Đạt mục tiêu tối cao bậc thánh

          Người xuất gia chân chánh mong cầu

              Vô thượng phạm hạnh cao sâu

       Tự mình chứng ngộ pháp mầu minh quang.

          Với thắng trí, trú an, chứng đạt,

          Tâm vị ấy an lạc sáng trong

              Dục lậu, hữu lậu thoát xong,

       Thoát vô minh lậu, khỏi vòng trói trăn,

          Liền hiểu rõ : Tự thân giải thoát

          Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành

              Việc cần làm đã thực hành

       Sau đời hiện tại, Vô sanh hiển bày.

 

          Tự thấu hiểu và ngay lập tức

          Káp-Sa-Pá Đại Đức trở thành

              Bậc A-La-Hán tịnh thanh

       Nhiệt tâm hoằng hóa Pháp lành thanh cao.

 

          Thời gian sau, ngài Bắc-Kú-Lá

          Vị Tôn-giả sống quá trăm năm

              Với chùm chìa khóa đang cầm

       Đi khắp trú xứ, cao âm nói rằng :

 

    – “ Chư Tôn-giả trong Tăng thân mến !

          Hãy tựu đến, tôi từ biệt đây !

              Tôi nhập Niết-bàn hôm nay ”.

 

       Sự việc hy hữu của ngài nói trên

         (Bạc-Câu-La là tên Tôn-giả)

          Vị tằng hữu ngài đã thực thi,

              Chúng tôi cung kính thọ trì.

       Rồi vị Tôn-giả tức thì ngồi an

          Giữa Chúng Tăng, Niết-bàn nhập hóa

          Bắc-Kú-La Tôn-giả Niết-bàn

              Là sự hy hữu vô vàn !

       Sự ‘chưa từng có’ của hàng Thánh Tăng.

 

          Chúng tôi hằng thọ trì thành tựu

          Vị tằng hữu, hy hữu sâu xa

              Của Tôn-giả Bạc-Câu-La

       Sống trên trăm tuổi, lìa xa thế trần ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *

 

( Chấm dứt Kinh số 124 :    BẠC-CÂU-LA   –

BAKKULA  Sutta )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2011(Xem: 3302)
Suy cho cùng, kiếp người hay cuộc tu chỉ là những lần ghé lại đâu đó. Nói ở nghĩa nào thì người ta không ai có thể chung thân với một thứ gì miên viễn. Mình không bỏ nó thì nó cũng xa mình. Ta có thể mất nó, vì nhàm chán hay không còn cơ hội nắm níu. Và cái mà ta yêu nhất cũng có nhiều kiểu bỏ ta ở lại mà đi. Hồi xưa bắt chước theo kinh mà nói thì cái gì cũng là bè cỏ qua sông... Giờ có thêm tí tuổi, nhiều lúc nằm ngẫm nghĩ một mình, thấy câu nói ví von đó hay quá chừng, hay đáo để.
14/01/2011(Xem: 3749)
Cách đây hơn một tuần, trong lúc chuẩn bị nấu nước pha trà buổi sáng, tự dưng lòng tôi nhớ quay quắt những chén trà năm xưa tôi đã từng chia sẻ với Thầy Tâm Phương trong những buổi sáng tĩnh lặng tại ngôi chùa nghèo Quảng Đức ở Broadmeadows. Tôi đã vội gọi Thầy Tâm Phương và hết sức may mắn Thầy vẫn còn nhớ tên tôi..dù rằng Thầy đã quên mất giọng nói quen thuộc của tôi rồi! Thầy rất mừng vì nghe được qua một số Phật tử biết cuộc sống của tôi lúc nầy an nhàn lắm. Tôi thưa với Thầy về cuộc đời hưu của tôi mấy năm gần đây cũng như nói với Thầy là tôi thèm vô cùng được cùng Thầy nhâm nhi lại những chén trà xưa!
14/01/2011(Xem: 3304)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Ba mươi năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của ngày mới lớn. Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm dù đã trải qua bao tháng năm cũng chẳng rộng lớn gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên quang cảnh càng hiu hắt thê lương.
07/01/2011(Xem: 3514)
Chuyện Tiền thân Bahiya (Jàtaka 420) kể lại rằng : “Thuở xưa, khi vua Bramadatta trị vì ở Ba-la-nai, Bồ-tát là một vị đại thần của triều đình. Có một nữ nhân thôn quê thân thể béo mập, ăn mặc lôi thôi, làm công ăn lương, đang đi ngang qua gần sân của nhà vua, cảm thấy thân bị bức bách ngồi xuống lấy áo đắp che thân, giải toả sự bức bách của thân và nhanh nhẹn đứng dậy”.
06/01/2011(Xem: 6368)
Tôi và chị chưa hề một lần gây thù chuốc oán với nhau. Vậy mà không hiểu sao ngay từ ngày chạm mặt đầu tiên ở trụ sở Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh, bỗng dưng tôi thấy ghét chị thậm tệ. Và nhìn ánh mắt, vầng trán nhăn nhíu, điệu bộ của chị khi đứng gần tôi vào lúc cuộc họp chuẩn bị khai mạc, tôi cảm nhận, thấy biết được chắc chắn rằng chị cũng chẳng ưa gì tôi, có thể là ghét cay ghét đắng tôi, còn hơn cái mức mà tôi ghét chị. Sao kỳ vậy? Đố kỵ tài năng sao? Không phải.
05/01/2011(Xem: 3216)
Tôi sinh ra và trải qua những ngày tuổi thơ ở Huế. Như vậy cũng đủ để tôi tự hào đã chia sẻ cùng Huế với tất cả những thủy chung của lòng mình. Thế rồi, tôi cũng phải xa Huế đã 30 năm, quê hương đó vẫn rạng ngời trong tâm tưởng. Huế dấu yêu ơi! có bao nhiêu điều phải nhớ: thời thơ ấu ấm áp trôi đi, tuổi học trò thần tiên trong ngôi trường màu hồng ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm cùng với dấu chân của những chàng trai thích đón đưa mỗi khi tan trường. Tôi với Huế biết bao tình thương mến, mỗi con đường, mỗi dòng sông, núi đồi, lăng tẩm, thành quách, chùa chiền là của Huế, là của tôi... Mặc dầu phải tất tả trong dòng đời xuôi ngược và biết rằng Huế là xứ sở thật kỳ, ở thì có điều không ưa nhưng đi xa thì lại nhớ, trong tôi vẫn chan chứa nỗi niềm với Huế. Nói như ai đó: "nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ Huế", nỗi nhớ thấm vào máu thịt, sâu lắng vào tâm hồn của những kẻ tha hương lòng vẫn bùi ngùi mỗi khi nhớ đến và chỉ muốn quay về!
04/01/2011(Xem: 3968)
Bạt: Bài viết “Phật giáo, một sự thực tập” dưới đây là bài đầu tiên trong tập hợp năm bài viết đã được phổ biến trên nguyệt san Triết học (Filosofie), 2004-2005. Đây là những tiểu luận về Phật giáo nhìn từ phương Tây, được viết từ bối cảnh của một truyền thống Phật giáo rất mới, được gọi là Phật giáo Tây phương. Tác giả, tiến sĩ Edel Maex là một nhà tâm lý trị liệu làm việc ở bệnh viện Middelheim tại Antwerpen, Bỉ. Ông là một trong những người sáng lập và ở trong ban điều hành của Trường Triết học Tỉ giảo (School voor comparatieve filosofie) ở Antwerpen. Ông là một người thực tập Thiền.
20/12/2010(Xem: 9643)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
14/12/2010(Xem: 2664)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]