Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Kinh Mật Hoàn

18/05/202019:54(Xem: 9541)
18. Kinh Mật Hoàn

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



18. Kinh MẬT HOÀN

( Madhupindika sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn an trụ

          Ka-Pì-La-Vát-Thú(1) thành này

 (Ca-Tỳ-La-Vệ(1) làđây)

       Giữa các thân quyến họ Ngài – Thích Ca             

          Tại vườn Ni-Rô-Tha-Ra-Má(2)

          Vào buổi sáng, Giác Giả Phật Đà

              Mang bát, đắp y ca-sa

       Khất thực tại Ca-Tỳ-La-Vệ thành.

          Sau khất thực, tịnh thanh thọ thực

          Rồi Đại Lâm lập tức đi qua

              Ngồi nghỉ dưới cội tên là

       Bê-Lu-Vát-Thí-Ka (3) cây này.

 

          Có vị ‘gậy cầm tay’ Sắc-Ká(4)

          Là một gã du sĩ dạn dày

              Ngao du thiên hạđóđây

       Lúc đóđi đến rừng này, Đại Lâm

          Gặp Thế Tôn, hỏi thăm theo lệ

          Xã giao, rồi đứng kế một bên

              Dựa trên cây gậy cứng bền

       Mà y thường trực cầm trên tay mình

    __________________________

(1) : Thành Kapilavatthu – Ca-Tỳ-La-Vệ , do vua Tịnh Phạn

       ( Suddhodana - phụ vương của Đức Phật ) trị vì .

 (2) : Vườn Nigrodharama .        (3) : Cây  Beluvalatthika .

 (4) : Vị du sĩ tên Sakka , vì luôn luôn cầm trên tay một cây gậy 

       nên có biệt danh là “ Gậy cầm tay”.

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 258

 

          Rồi Sắc-Ka ứng thinh hỏi khó :

    – “ Sa-môn có quan điểm thế nào ?

              Giảng thuyết những gì nhằm vào ?”

 

 – “ Hiền-giả ! Ta dạy nhằm vào sự duyên     

          Trong thế giới Chư Thiên, Ma-Rá(1)

          Cùng Phạm Thiên, tất cả cõi Trời

              Sa-môn, Bàn-môn (2), loài Người

       Không có tranh luận mọi thời, mọi nơi

          Với một ai ở đời này cả.

          Các Tưởng đã không ám ảnh gì

              Với vị Bàn-môn, một khi

       Không dục triền phược chấp trì, khiến sai 

          Không  nghi ngờ, không hay do dự

          Mọi hối quá sẽ tự diệt đi.

              Lại không có Tham ái chi

       Với hữu, phi hữu mọi thì mọi nơi.

          Này Hiền-giả ! Đó lời Ta giảng

          Là quan điểm căn bản của Ta ”.

 

              Khi nghe nói vậy, Sắc-Ka

       Lắc đầu, rồi liếm môi và khẩn trương

          Trán nổi lên ba đường nhăn đậm

          Y chầm chậm chống gậy đi ra.  

 

              Sau đó Thiện Thệ Phật Đà

       Về Ni-Rô-Thá-Ra-Ma tọa thiền

          Vào buổi chiều, sau thiền-định xả

          Ngài đứng dậy thong thả vào vườn

              Ngồi nơi dành sẵn Pháp Vương

    __________________________

(  ) : MARA  tức Ma Vương .

  (2) : Bàn-môn  hay  Phạm-chí  tức là Bà-La-Môn .

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 259

 

       Rồi Thế Tôn gọi các phương Tăng Già :

   –  “ Chư Tỷ Kheo tịnh hòa an lạc !

          Sáng nay, Ta mang bát đắp y

              Vào thành khất thực hành trì

       Ca-Tỳ-La-Vệ tức thì đến nơi.

          Sau thọ thực, Ta rời nơìấy

          Đến Đại Lâm ở lại nghỉ trưa

              Một người có tính hơn thua

       Tên là Sắc-Ká cũng vừa đến nơi

          Thích mọi thời ngao du thiên hạ

          Rồi Sắc-Ká liền đến gần Ta

              Bê-Lu-Va-Lát-Thí-Ka

       Dưới cội cây đó, nơi ta đang ngồi

          Chào xã giao, rồi thời liền hỏi

          Ta thường nói quan điểm thế nào ?

              Giảng thuyết những gì nhằm vào ?

       Nhân đó, Ta đã trước sau giảng liền : 

 

        ‘Trong thế giới Chư Thiên, Ma-Rá

          Cùng Phạm Thiên, tất cả cõi Trời

              Sa-môn, Bàn-môn, loài Người

       Không có tranh luận mọi thời, mọi nơi

          Với một ai ở đời này cả.

          Các Tưởng đã không ám ảnh gì

              Với vị Bàn-môn, một khi

       Không dục triền phược chấp trì, khiến sai 

          Không  nghi ngờ, không hay do dự

          Mọi hối quá sẽ tự diệt đi,

              Lại không có Tham ái chi

       Với hữu, phi hữu mọi thì mọi nơi.

          Này Hiền-giả ! Đó lời Ta giảng

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 260

 

          Là quan điểm căn bản của Ta’.

              Khi nghe nói vậy, Sắc-Ka

       Lắc đầu, rồi liếm môi và khẩn trương

          Trán nổi lên ba đường nhăn đậm

          Y chầm chậm chống gậy đi ra ”.  

 

              Khi nghe câu chuyện vừa qua 

       Một Tỷ Kheo đã hiền hòa thưa ra :

       “ Bạch Phật Đà ! Thế nào lời dạy

          Trong thế giới hết thảy Chư Thiên

              Ma Vương và cả Phạm Thiên

       Sa-môn, Phạm-chí , chẳng riêng loài Người

          Mà Thế Tôn ở đời không muốn

          Với một ai tranh luận làm gì.

              Các Tưởng không ám ảnh chi

       Đến Thế Tôn cả, bởi vì Ngài đây

          Dục triền phược không rày xâm nhập

          Không do dự, xác lập, không nghi

              Mọi hối quáđoạn diệt đi

       Không tham ái với hữu, phi hữu nào ? ”.

 

       “ Này Tỷ Kheo ! Hiểu vào tự sự

          Do bất cứ là nhân duyên gì,       

              Và hý luận vọng tưởng chi

Ám ảnh đến một người thì ra sao ?

          Nếu không cóđiều nào khả dĩ

Đáng tùy hỷ, chấp thủ tương liên

              Vậy là sựđoạn tận liền 

       Tham, sân, nghi, kiến-tùy-miên của mình

          Mạn, hữu tham, vô minh đoạn tận

          Sựđoạn tận chấp trượng, đấu tranh

              Chấp kiến, tránh tranh, luận tranh

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 261

 

       Ly gián, vọng ngữ, kháng tranh diệt rày.

          Chính ởđây, những bất thiện pháp &

          Các ác pháp đều được diệt trừ

              Vĩnh viễn không còn tàn dư ”.

 

       Sau khi giảng vậy, Đại Từ đứng lên

          Vào hương-thất tịnh yên để nghỉ.

          Khi bậc Vô Thượng Sĩđi rồi

              Các vị Tỷ Kheo còn ngồi

       Bàn luận : “ Thiện Thệ tùy thời giảng ra

          Nhưng chúng ta vẫn còn thắc mắc

          Về lời dạy tóm tắt của Ngài.

              Nay ai có thể trình bày

       Giải thích rộng rãi ý này cho ta ? ”.

          Rồi các vị nhớ ra Tôn Giả

          Ngài Ma-Ha Kách-Chá-Da-Na

  (Đại Ca-Chiên-Diên cũng là)

       Là vị được đức Phật Đà tán dương

Chư phạm-hạnh cũng thường kính trọng

          Ngài có thể giảng rộng nghĩa mầu

              Vậy chúng ta hãy cùng nhau

       Đến gặp Tôn-giả, thỉnh cầu giảng ra ”.

 

          Những Tỷ Kheo ấy qua đến chỗ

          Của Tôn-giả Kách-Chá-Da-Na.   

              Thi lễ, chúc tụng hỏi qua

       Một bên ngồi xuống, thưa ra với ngài :

    – “ Thưa Hiền-giả ! Chiều nay Thiện Thệ

    _______________________________

(1) : Tôn-giả  Mahà Kaccayana  – Đại Ca-Chiên-Diên là

    một trong Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật , được tôn xưng

    là bậc “Luận Nghị Đệ Nhất”.

 

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 262

 

          Trong thời pháp, đã kể chuyện là

              Có du-sĩ tên Sắc-Ka

       Đến Đại Lâm, gặp Phật Đà tại đây

          Du-sĩ này hỏi Ngài chi tiết

          Quan điểm Ngài, giảng thuyết những gì ?

              Thế Tôn trả lời tức thì

       Nhưng du-sĩ không cách gì hiểu sâu

          Y lắc đầu, liếm môi – trán hắn

          Ba đường nhăn nổi hẳn tức thì

              Rồi y chống gậy ra đi.

       Khi nghe Đấng Chánh Biến Tri kể rồi

          Thì chúng tôi xin Ngài giảng rõ

          Những điều đó diệu nghĩa thế nào ?  

              Để chúng tôi hiểu thâm sâu

       Sau đó Ngài giảng đuôi đầu như sau :

 

 ‘Các Tỷ Kheo ! Hiểu vào tự sự

          Do bất cứ là nhân duyên gì,       

              Và hý luận vọng tưởng chi

Ám ảnh đến một người thì ra sao ?

          Nếu không cóđiều nào khả dĩ

Đáng tùy hỷ, chấp thủ tương liên

              Vậy là sựđoạn tận liền 

       Tham, sân, nghi, kiến-tùy-miên của mình

          Mạn, hữu tham, vô minh đoạn tận

          Sựđoạn tận chấp trượng, đấu tranh

              Chấp kiến, tránh tranh, luận tranh

       Ly gián, vọng ngữ, kháng tranh diệt rày.

          Chính ởđây, những bất thiện pháp &

          Các ác pháp đều được diệt trừ

              Vĩnh viễn không còn tàn dư’.

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 263

 

       Sau khi giảng vậy, Đại Từ đứng lên

          Vào hương-thất tịnh yên để nghỉ.

 

          Khi bậc Vô Thượng Sĩđi rồi

              Tất cả chúng tôi còn ngồi

       Bàn luận : ‘Thiện Thệ tùy thời giảng ra

          Nhưng chúng ta vẫn còn thắc mắc

          Về lời dạy tóm tắt của Ngài

              Nay ai có thể trình bày

       Giải thích rộng rãi ý này cho ta ?’

          Rồi chúng tôi nhớ ra Tôn Giả

          Nên vội vả đến để nhờ ngài

              Giải thích sâu ý nghĩa này ”.

 

 – “ Này chư Hiền-giả ! Cũng tày người kia

Ưa thích lõi cây kia quý hiếm

Đi khắp nơi tìm kiếm lõi cây

              Gặp một cây lớn, thẳng ngay

       Bên trong ắt có lõi cây mình cần

          Bỏ qua rễ, qua thân cây ấy

          Y nghĩ phải tìm ở lá, cành.

              Các vị hành động vội, nhanh

       Đứng trước Thiện Thệ trọn lành, viên thông

          Bỏ qua, không hỏi ngay Thiện Thệ

          Nghĩ rằng để hỏi tôi việc này.

Chư Hiền ! Thế Tôn trí tài

       Những gì cần biết thì Ngài biết ngay

          Cần phải thấy thì Ngài thấy rõ

          Ngài trở thành vị có mắt xa

              Thành vị có trí hằng hà

       Trở thành Chánh Pháp, hoặc là Phạm Thiên,

          Vị thuyết-giả, vị chuyên diễn giải

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 264

 

          Vịđem lại chân chánh mục tiêu

              Trao cho bất tử tiêu diêu

       Là vị Pháp Chủ, diệu siêu Phật Đà.

          Phải tùy thời hỏi qua Thiện Thệ

          Vềý nghĩa này, để hiểu mau

              Những gì Thế Tôn giảng sâu

       Y cứ như vậy, cùng nhau thọ trì ”.

 

    – “ Thưa Hiền-giả ! Những gì Phật biết   

          Là nhất thiết vi diệu sâu xa

              Chúng tôi nhất định hỏi qua

Ý nghĩa đó khi xảy ra hợp thời,

          Sẽ thọ trì những lời Ngài dạy.

          Nhưng chúng tôi nhận thấy điều là

              Tôn-giả Kách-Chá-Da-Na

       Được Phật tán thán, Tăng-Già kính thương   

          Có thể thay Pháp Vương giảng giải .

          Những lời dạy của Đức Phật Đà

              Ngài nói vắn tắt, lược qua

       Chúng tôi chưa hiểu sâu xa lời Ngài

          Chúng tôi nay kính mong Tôn-giả

          Hãy giảng rộng giải tỏa điều nghi

              Thiết nghĩ việc không có gì,

       Không hề bất kính với vì Thế Tôn ”.

 

    – “ Vậy Chư Hiền Sa-Môn ! Nghe kỹ,  

          Khéo tác ý , tôi sẽ trình bày ”.     

 

        – “ Thưa vâng ! Xin ngài nói ngay ”.  

 

 – “ Chư Hiền-giả ! Phải nghĩ rày đắn đo 

          Do nhân mắt và do sắc-pháp

 

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 265

 

Nhãn-thức sẽ thuận hạp khởi lên

              Sự gặp gỡ ba pháp nền

       Chính là Xúc, do xúc liền có ngay

          Sựcảm thọ, do đây có tưởng

 

          Hễ cótưởng thì cósuy tầm

Hý luận do có suy tầm

       Hý luận, vọng tưởng âm thầm mọi nơi.

          Chúng ám ảnh một người này, khác

          Đối với các sắc-pháp, xảy ra

              Do con mắt nhận thức qua

       Hiện tại, quá khứ cùng là tương lai.

 

          Chư Hiền này ! Do nhân taiđó

          Các tiếng có, nhĩ-thức khởi lên,

 

             Do mũi, các hương, tạo nên

       Khiến cho tỷ-thức khởi lên tức thì,

          Do nhân lưỡi và vì các vị

          Khiến thiệt-thức khả dĩ khởi lên.

              Do thânxúc tạo nên

       Khiến cho thân-thức khởi lên đủ trò.

          Do nhân ý và do các pháp

Ý-thức liền thuận hạp khởi lên.

 

              Tương tự với lý giải trên

       Khi nào có mắt, có liền sắc đây

          Và khi nào có ngay nhãn-thức

          Sự thi thiết của xúc hiển bày,

              Sự kiện này xảy ra ngay :

       Khi có sự thi thiết rày xúcđây

          Thì thi thiết thọnày hiển lộ.

 

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 266

 

          Thi thiết thọ, thi thiết tưởng bày.

              Rồi xảy ra sự kiện này :

       Thi thiết của tưởng lộ ngay suy tầm

          Thi thiết của suy tầm được biết

          Khiến thi thiết ám ảnh hiển bày

             Các hý luận, vọng tưởng ngay.

       Cũng tương tự, sự kiện này đến nhanh :

          Khi có tai, âm thanh, nhĩ-thức …

          Khi có mũi, tỷ-thức, mùi hương …

              Có lưỡi, thiệt-thức, vị thường …

       Có thân, thân-thức, tinh tường xúc thân …

          Khi cóý, pháp trần, ý-thức …

          Có lục căn, lục thức, lục trần 

              Thân, khẩu, ý-thức ba phần

       Ba pháp gặp gỡ tạo dần xúc ngay .

          Do có xúc, có ngay cảm thọ

          Có cảm thọ thời cótưởng ngầm

              Có tưởng thì cósuy tầm

Hý luận do có suy tầm mà ra.

          Sự kiện này xảy ra được biết :

          Khi có sự thi thiết suy tầm

              Thi thiết của ám ảnh, nhằm

       Hý luận, vọng tưởng từ tâm hiển bày.

          Này Chư Hiền ! Ởđây như thế

          Sự kiện này không thể xảy ra :

              Khi nào không có mắt ta

       Các sắc, nhãn-thức cũng là đều không

          Thi thiết trong xúc này hiển lộ.

       – Khi sự cố không thể có này :

              Không có thi thiết Xúc đây       

       Mà sự thi thiết Thọ bày hiển ra.

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 267

 

      –  Không có qua thi thiết của Thọ

          Thì không có hiển lộ Tưởng ra.

              Cũng như vậy, không xảy ra :

   –  Không thi thiết Tưởng trải qua âm thầm

          Mà thi thiết suy tầm hiển lộ.

      –  Nếu không có thi thiết suy tầm

              Thì sự thi thiết không nhằm     

       Vào sựám ảnh một phần xảy ra

          Hiển lộ hý luận và vọng tưởng.

 

      *  Cũng như vậy, định hướng rõ ngay

              Tai, mũi, lưỡi, thân, ý này   

       Tương tự như vậy, trình bày cho thông :

          Ví dụ như : Khi không cóý

          Không các pháp, không ý-thức ngay

              Sự thi thiết của xúc này

       Không được hiển lộ như vầy, ởđây

          Không thi thiết xúc này hiển lộ

          Thì không có thi thiết Thọ bày

              Không có thi thiết Thọ này

       Không có thi thiết Tưởng đây hiển bày.

          Không có rày thi thiết của Tưởng

          Không hiện tượng hiển lộ suy tầm

              Không có thi thiết suy tầm

       Thi thiết ám ảnh không nhằm lộ ra

          Một số hý luận và vọng tưởng’.

 

          Đấng Vô Thượng vắn tắt trình bày 

              Rồi vào hương thất của Ngài.

       Một số Hiền-giả tại đây chưa tường

          Lời Pháp Vương thâm sâu khó hiểu,

          Nhưng tôi hiểu nghĩa lý như vầy

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 268

 

              Nếu cần, hãy hỏi lại Ngài

       Thế Tôn giải đáp, theo đây thọ trì ”.

 

          Các Tỷ Kheo tức thì hoan hỷ

          Theo tôn ý ngài Kách-Cha-Na

              Đứng dậy, về gặp Phật Đà

       Sau khi đảnh lễ, an hòa ngồi bên

          Hướng về Phật, nói lên ý kiến :

    – “ Bạch Thế Tôn ! Câu chuyện Sắc-Ka

              Ngài đã vắn tắt giảng ra    

       Chúng con chưa hiểu nên qua thiền tòa

          Gặp Tôn-giả Kách-Cha-Da-Ná

          Xin Tôn-giả giảng rộng thêm ra

              Và Tôn-giảđã giảng qua

       Với những phương pháp trải qua thế này

          Những văn cú như vầy đơn cử,

          Những văn-tự súc tích như vầy,

              Bạch Thế Tôn ! Thật lành thay !

       Xin Ngài cho biết việc này ra sao ? ”.

 

    – “ Chư Tỷ Kheo ! Nói vào thông tuệ

          Thì phải kểĐại Ca-Chiên-Diên

               Là bậc Tôn-giả trí hiền

       Là người đại tuệ, luận chuyên đại tài.

          Nếu có hỏi Như Lai nghĩa lý

          Ta cũng chỉ trả lời thế thôi.

              Như vậy chính nghĩa từng lời

       Hãy nên căn cứ làm nơi thọ trì ”.

 

          Nghe nói vậy, tức thì Tôn-giả

          A-Nan-Đa , vội vả thưa qua :

       – “ Bạch Thế Tôn ! Giống như là

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 269

 

       Một người đói lả , trải qua mệt nhoài .

          Tìm trong ngoài, rất may gặp được

          Một bánh mật như dược thực này

              Mỗi miếng vịấy nếm đây

       Vị ngọt, thơm ấy thấm đầy chân răng.

          Bạch Thế Tôn ! Cũng hằng nhưđó

          Tỷ Kheo có tri thức biệt tài

              Mỗi phần suy tư pháp này

       Hiểu nghĩa với trí tuệ, đầy hân hoan

          Giống nhưđang nếm mùi hỷ-thực

          Được thưởng thức thoải mái tâm hồn.

              Kính bạch Đại Giác Thế Tôn !

       Chúng con phải gọi pháp môn tên gì ? ”

 

     – “ Này A-Nan (1)! Phụng trì chân thật

          Gọi pháp môn ‘Bánh Mật” (Mật hoàn).

 

              Nghe Phật thuyết giảng, hân hoan 

       A-Nan tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *   *

 

(  Chấm dứt  Kinh số 18  :  MẬT HOÀN

MADHUPINDIKA Sutta  )        

    _______________________________

(1) : Tôn-giả  ANANDA  hay  A-Nan  là con  Hộc-Phạn Vương      

   ( Sukodana –  em Vua Tịnh Phạn - Suddhodana ), tức là em chú

   bác với Đức Phật . Xuất gia cùng với 6 vị vương-tử giòng Thích

   Ca khi đức Phật  về thăm lại Ca-Tỳ-La-Vệ  ( Kapilavatthu ) lần 

đầu tiên sau khi thành đạo .Tôn-giả là Thị giả hầu cận trung tín  

  của Đức Phật suốt 30 năm trung-giác-thời và hậu-giác-thời của 

 Phật .   ( 15 năm tiền-giác-thời, đức Phật chưa có vị  thị giả nào nhất định và chính thức ). Tôn-giả cũng là vị “Đa Văn Đệ Nhất” trong Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật . 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2011(Xem: 3232)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
15/01/2011(Xem: 3355)
Suy cho cùng, kiếp người hay cuộc tu chỉ là những lần ghé lại đâu đó. Nói ở nghĩa nào thì người ta không ai có thể chung thân với một thứ gì miên viễn. Mình không bỏ nó thì nó cũng xa mình. Ta có thể mất nó, vì nhàm chán hay không còn cơ hội nắm níu. Và cái mà ta yêu nhất cũng có nhiều kiểu bỏ ta ở lại mà đi. Hồi xưa bắt chước theo kinh mà nói thì cái gì cũng là bè cỏ qua sông... Giờ có thêm tí tuổi, nhiều lúc nằm ngẫm nghĩ một mình, thấy câu nói ví von đó hay quá chừng, hay đáo để.
14/01/2011(Xem: 3801)
Cách đây hơn một tuần, trong lúc chuẩn bị nấu nước pha trà buổi sáng, tự dưng lòng tôi nhớ quay quắt những chén trà năm xưa tôi đã từng chia sẻ với Thầy Tâm Phương trong những buổi sáng tĩnh lặng tại ngôi chùa nghèo Quảng Đức ở Broadmeadows. Tôi đã vội gọi Thầy Tâm Phương và hết sức may mắn Thầy vẫn còn nhớ tên tôi..dù rằng Thầy đã quên mất giọng nói quen thuộc của tôi rồi! Thầy rất mừng vì nghe được qua một số Phật tử biết cuộc sống của tôi lúc nầy an nhàn lắm. Tôi thưa với Thầy về cuộc đời hưu của tôi mấy năm gần đây cũng như nói với Thầy là tôi thèm vô cùng được cùng Thầy nhâm nhi lại những chén trà xưa!
14/01/2011(Xem: 3355)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Ba mươi năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của ngày mới lớn. Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm dù đã trải qua bao tháng năm cũng chẳng rộng lớn gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên quang cảnh càng hiu hắt thê lương.
07/01/2011(Xem: 3549)
Chuyện Tiền thân Bahiya (Jàtaka 420) kể lại rằng : “Thuở xưa, khi vua Bramadatta trị vì ở Ba-la-nai, Bồ-tát là một vị đại thần của triều đình. Có một nữ nhân thôn quê thân thể béo mập, ăn mặc lôi thôi, làm công ăn lương, đang đi ngang qua gần sân của nhà vua, cảm thấy thân bị bức bách ngồi xuống lấy áo đắp che thân, giải toả sự bức bách của thân và nhanh nhẹn đứng dậy”.
06/01/2011(Xem: 6570)
Tôi và chị chưa hề một lần gây thù chuốc oán với nhau. Vậy mà không hiểu sao ngay từ ngày chạm mặt đầu tiên ở trụ sở Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh, bỗng dưng tôi thấy ghét chị thậm tệ. Và nhìn ánh mắt, vầng trán nhăn nhíu, điệu bộ của chị khi đứng gần tôi vào lúc cuộc họp chuẩn bị khai mạc, tôi cảm nhận, thấy biết được chắc chắn rằng chị cũng chẳng ưa gì tôi, có thể là ghét cay ghét đắng tôi, còn hơn cái mức mà tôi ghét chị. Sao kỳ vậy? Đố kỵ tài năng sao? Không phải.
05/01/2011(Xem: 3264)
Tôi sinh ra và trải qua những ngày tuổi thơ ở Huế. Như vậy cũng đủ để tôi tự hào đã chia sẻ cùng Huế với tất cả những thủy chung của lòng mình. Thế rồi, tôi cũng phải xa Huế đã 30 năm, quê hương đó vẫn rạng ngời trong tâm tưởng. Huế dấu yêu ơi! có bao nhiêu điều phải nhớ: thời thơ ấu ấm áp trôi đi, tuổi học trò thần tiên trong ngôi trường màu hồng ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm cùng với dấu chân của những chàng trai thích đón đưa mỗi khi tan trường. Tôi với Huế biết bao tình thương mến, mỗi con đường, mỗi dòng sông, núi đồi, lăng tẩm, thành quách, chùa chiền là của Huế, là của tôi... Mặc dầu phải tất tả trong dòng đời xuôi ngược và biết rằng Huế là xứ sở thật kỳ, ở thì có điều không ưa nhưng đi xa thì lại nhớ, trong tôi vẫn chan chứa nỗi niềm với Huế. Nói như ai đó: "nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ Huế", nỗi nhớ thấm vào máu thịt, sâu lắng vào tâm hồn của những kẻ tha hương lòng vẫn bùi ngùi mỗi khi nhớ đến và chỉ muốn quay về!
04/01/2011(Xem: 4023)
Bạt: Bài viết “Phật giáo, một sự thực tập” dưới đây là bài đầu tiên trong tập hợp năm bài viết đã được phổ biến trên nguyệt san Triết học (Filosofie), 2004-2005. Đây là những tiểu luận về Phật giáo nhìn từ phương Tây, được viết từ bối cảnh của một truyền thống Phật giáo rất mới, được gọi là Phật giáo Tây phương. Tác giả, tiến sĩ Edel Maex là một nhà tâm lý trị liệu làm việc ở bệnh viện Middelheim tại Antwerpen, Bỉ. Ông là một trong những người sáng lập và ở trong ban điều hành của Trường Triết học Tỉ giảo (School voor comparatieve filosofie) ở Antwerpen. Ông là một người thực tập Thiền.
20/12/2010(Xem: 9782)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]