Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đa Tạ và Tri Ân, Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông

03/08/201821:09(Xem: 3496)
Đa Tạ và Tri Ân, Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông

minh_chauĐA TẠ VÀ TRI ÂN

Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông

 

Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc. 

Bài viết này xin được tri ân những nhà dịch giả của thế kỷ 20 và 21, trong đó phải kể đến những người tôi hằng ngưỡng mộ như HT Thích Bảo Lạc, HT Thích Như Điển, Thượng tọa Thích Nguyên Tạng, Sư Tâm Pháp, Giáo Sư Trần Tuấn Mẫn và dĩ nhiên những bậc Thầy thượng thặng như Cố HT Thích Minh Châu, Cố Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải, Cố Giáo Sư Phạm Công Thiện hoặc những dịch giả nổi tiếng như Dr Hoàng Phong, Thầy Đặng Hữu Phúc, Thầy Tuệ Uyển.

Có ai đã từng bỏ nhiều giờ trong ngày để đọc hết một chương trong BA BỘ KINH PHÁP HOA của Nikkyo Niwano, do Giáo Sư Trần Tuấn Mẫn dịch chưa để có thể hiểu rõ ràng và phân biệt thế nào là Bổn Môn, Tích Môn, hay mừng mừng tủi tủi để được biết thêm các công đức ta sẽ có được khi học Kinh Pháp Hoa, mà dù Đức Phật có tuyên thuyết suốt vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp? Hoặc THE WAY OF ZEN của Alan W Watts do Cố Ni Sư Thích Nữ Trí Hải dịch, để biết được rằng ta phải rèn luyện một tâm thức bất động như một kiếm sĩ khi đứng trước đối phương, hoặc nghệ thuật nghe trọn vẹn một khúc hòa âm khi phải để hết tâm trí vào sự tuôn chảy của dòng nhạc ...

Có ai đã rưng rưng khi đọc tự truyện của Thân mẫu Đức Đạt Lai Lạt Ma do Thầy Thích Nguyên Tạng dịch chưa? Và còn nhiều quyển sách khác đã được các nhà dịch thuật đem hết tâm trí mình làm cho lời văn súc tích hơn, gẫy gọn hơn hầu giúp người đọc dễ hiểu hơn.

Hẳn nhiên người dịch thuật ngoài trình độ văn hóa thế tục, phải có thêm một nội lực thâm sâu, một sự tu tập công phu về giáo lý Phật Pháp kèm theo một sự thân chứng ...( Chẳng  hạn khi đọc các bài dịch của Sư Tâm Pháp như Bản đồ hành trình tâm linh, Cuộc đời là một trường học hay Thái độ tiêu cực và Chánh niệm của Thiền Sư Sayadaw U Jotika, người đọc đã rút tỉa rất nhiều kinh nghiệm cho bản thân mình và nối kết liên hệ với sự tu tập vào cuộc sống).

Thực tế có những người tìm giác ngộ qua ngôn từ và tư tưởng, có thể chẳng minh triết hơn, đó là vì họ đã lẫn lộn sự minh triết của Thánh hiền với những học thuyết của Bậc Thánh mà chẳng chịu tư duy và thực hành, vì bất cứ những điều được nói ra và dịch lại chỉ là BẢN ĐỒ DẪN ĐƯỜNG. 

Phải nói rằng những người tự cho mình chỉ chuyên về một tông phái riêng mà bỏ qua những bài dịch thuật khắp bốn phương thì sẽ không thể nào có một tư lương đầy đủ. 

Cổ Đức thường dạy "Chỉ trích và biện minh đều là ngu xuẩn" 

Cũng như Alan W. Watts trong The Way of Zen cho rằng Thiền là cuộc sống, đuổi theo Thiền là đuổi theo cái bóng của mình và chỉ khi nào ta nhận thấy rằng ta không bao giờ bắt được bóng thì ta mới có thể .....tìm được cái Ngã chân thật của mình.

Dù biết rằng đừng biến mình thành ngục tù tư tưởng hay biến kinh điển thành những nấm mồ chôn vùi xác chết của trí tuệ Như Lai, nhưng chúng ta cần phải có được một tâm thức cao cấp mà trong đó con người tìm thấy sự hợp nhất tối hậu của Vũ trụ. 

Thời đại của thế kỷ 21 mỗi người con Phật, đều phải mang ơn những nhà dịch thuật đã đem tư tưởng của các danh Tăng, danh nhân, các Lạt Ma vĩ đại trên thế giới tạo nên một thế giới tâm linh, mà chỉ khi nào ta đắm mình say mê nghiền ngẫm và tu tập, để một lúc nào đó ta chợt nhận ra trong đó sinh tử và Niết Bàn là một, Niết Bàn là tại đây và bây giờ ngay giữa dòng sinh tử. Mọi sự đều tùy thuộc vào thực chứng trong tâm của mỗi người, hãy thấy ngay Niết Bàn trong mọi vật tầm thường của cuộc sống. 

Và đó là sự hiểu biết mà tôi đã đạt được nhờ những bài dịch từ những bậc anh tài. 

Kính xin tri ân và kính xin kính chúc các Ngài, các dịch giả luôn được pháp thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu, sự nghiệp hoằng pháp được viên mãn ...


Huệ Hương 
Melbourne 3/8/2018

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24409)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9382)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10984)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3612)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5316)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3235)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10480)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3725)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15027)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3476)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]