Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhớ Thầy Là Nhớ Pháp

21/04/201817:46(Xem: 6695)
Nhớ Thầy Là Nhớ Pháp

ht thich phuoc duong



Nhớ Thầy Là Nhớ Pháp

Bài của Nhật Duyệt Lê Khắc Thanh Hoài
PT Diệu Danh diễn đọc




       

        Kính Dâng Giác Linh Hòa Thượng Thích Phước Đường

 

Kính Thưa Thầy,

Con, Nhật Duyệt, xin thay mặt các bác, các anh, chị, em, các đạo hữu của đạo tràng tu học Một Ngày An Lạc tại Trúc Lâm được có đôi lời bày tỏ tấm lòng kính quí và tri ân của chúng con đến với Thầy.

Sự ra đi đột ngột và nhanh chóng của Thầy, ngoài sức tưởng tượng của chúng con là một bài học về Vô Thường mà Thầy đã nhắc nhở chúng con. Ngọn gió Vô Thường luôn thổi đến một cách bất ngờ, không ai chờ, không ai đợi, không ai mong mà nó vẫn thản nhiên ùa đến và kéo ta đi. Tất cả đều phải bỏ lại, cái thân vật chất, hay tài sản đã gom góp, thừa hưởng và cả cái « thân » tinh thần, không vật chất như danh vọng, sự nghiệp. Tất cả những gì chúng ta yêu quí hay ghét bỏ, người hay vật, danh hay lợi đều cũng phải bỏ lại như  nhau.

Sự ra đi của Thầy nhắc nhở chúng con đừng quên bài học về Vô Thường này. Tuy Vô Thường hiển hiện ngay trước mắt, kề sát bên mình nhưng chúng con vẫn thường quên nó để đắm say vào những lạc thú và danh vọng ở đời. Tuy nơi bài kinh « Chuyển Pháp Luân » mà Thầy vẫn muốn chúng con thường xuyên đọc tụng, đức Phật đã hỏi : « Hỡi các tỳ kheo, Vô Thường là khổ hay vui » Và các tỳ kheo đều trả lời : « Bạch Thế Tôn là khổ » vậy mà chúng con vẫn luôn tìm cách sống mà quên Vô Thường, sống mà quên cái ngày rồi phải rũ áo ra đi, chỉ có bỏ lại mà không thể giữ lại gì được. Chúng con mải miết sống u mê như thế.

Bao nhiêu năm đã trôi qua, chúng con đã có may mắn được gặp Thầy, hầu cận Thầy, được nghe Thầy nói, nghe Thầy giảng và cả nghe Thầy hát. Vậy mà chúng con vẫn tối tăm, si mê dày đặc ! 

Nay Thầy đã rời xa chúng con, còn lại gì để chúng con nhớ đến Thầy ? Ôi ! Thật là quá nhiều bài học mà chúng con cần phải ghi nhớ và ôn đi ôn lại trong tâm khảm.

Thầy đã dạy cho chúng con quá nhiều điều và đó cũng là tất cả Pháp mà Phật đã từng dạy. Thầy không cần đến văn chương bóng bẩy, chữ nghĩa dông dài, phức tạp, cao siêu. Ôi ! mà chính Thầy mới thật là cao siêu vĩ đại khi Thầy thản nhiên phát biểu trước đám đông :  « Tôi thật chẳng biết gì mà nói, cũng chẳng văn hay chữ tốt, thuở xa kia tôi chỉ lo chuyện làm xì dầu !"

Khi nghe đến lời Thầy như thế thì chúng con như nghe tiếng sấm tiếng sét đang hét vào tai : « Đã nhận ra bậc Thầy chân chính chưa ? Hay quì xuống và lạy Thầy đi !"

Chúng con xin muôn đời ghi nhớ bài học vĩ đại mà Thầy đã nói tuy rằng chẳng nói một lời !

Bởi vì chính nơi cách sống của Thầy mà chúng con nhận ra những bài học, những bài Pháp quí giá.

Nơi Thầy, chúng con đã học được Hạnh Bố Thí. Không một ai đến chùa gặp Thầy, là đứa bé hay người già cả, mà ra về tay không. Lúc nào cũng có một trái cây, một gói bánh, một cuốn kinh, hay bất cứ gì mà Thầy có thể làm quà được.

Nơi chùa ai cũng biết Thầy khiêm nhường, nhẫn nhịn mọi điều, ai thương, ai ghét, ai nói nặng, ai nói nhẹ, ai kính, ai bất kính, ai phê bình, ai chỉ trích, Thầy đều im lặng nhận hết. Đây, Thầy đã dạy cho chúng con bài học về Hạnh Nhẫn Nhục.

Đối với mọi người, Thầy không có lòng bỉ thử. Ai có ghét Thầy, Thầy cũng không hề ghét lại. Ai đau khổ, Thầy tận tình lắng nghe, an ủi, khuyên lơn, chỉ bảo. Đây, chúng con lại học được Hạnh Từ Bi của Thầy. Đúng như lời Phật dạy trong kinh Từ Bi « Không bỏ sót một hữu tình nào, cầu cho tất cả đều an lạc »

Trong một khóa tu mà Thầy đã hướng dẫn chúng con, Thầy nhắc nhở đừng quên nguyện cầu Bồ Tát Quán Âm, lúc nào đang gặp khổ, gặp nạn, cứ nhất tâm đặt lòng tin vào Ngài thì chắc chắn sẽ thoát khổ thoát nạn. Và Thầy cũng khuyến tu theo hạnh Từ Bi và Lắng Nghe của vị Đại Bồ Tát này. Hạnh Lắng Nghe này rất thâm sâu mà chúng con cần phải học hỏi nhiều hơn nữa để hiểu cho hết, cho thấu đáo tấm lòng bao dung, hiền lành, chân thật cùng với các hạnh nguyện ứng thân cứu độ và ban cho sự không sợ hãi của Ngài.

 

Thầy từ bi nhưng Thầy cũng rất mực nghiêm khắc, làm việc với Thầy không thể dễ duôi, không thể làm cho có, cho xong, cẩu thả, không cẩn thận, không suy tính. Cho dù có mệt, có bệnh, Thầy cũng không than không rên, cho dù trời nắng trời mưa, cho dù nóng nực hay giá rét, Thầy vẫn không ngừng công việc, cho dù là chăm sóc vườn tược, hay những thời công phu, nghi lễ phải thực hành, Thầy không hề ngừng nghỉ. Thầy đã làm gương cho chúng con như thế, điều này bắt buộc chúng con phải biết cố gắng và siêng năng. Đây, Thầy đã dạy cho chúng con Hạnh Tinh Tấn.

 

Thầy ăn uống giản dị, đạm bạc, không tìm cầu món ngon của lạ. Nơi Thầy yên giấc, một chiếc giường cỏn con, một chiếc nệm mỏng manh. Bàn ghế, tủ, kệ, vật dụng Thầy dùng cũng rất đơn sơ, giản dị, bình thường không phải loại quí giá, đắt tiền, kiểu này kiểu nọ. Đây, Thầy đã dạy cho chúng con bài học của sự Trì Giới. Điều phục các giác quan, xa lánh dục lạc ở đời.

Thầy rất xem trọng việc Qui Y Tam Bảo, không phải chỉ Qui Y một lần là xong, là quên, là bỏ đó. Thầy thường nhắc nhở chúng con nương tựa Phật, nương tựa Pháp, nương tựa Tăng, sự nương tựa nơi Tam Bảo là từng giây từng phút, là từng giờ từng khắc. Dính chặt và in sâu vào tâm thức. Như vậy, đời đời kiếp kiếp không lo sợ sai đường lạc lối. Cũng thế, Thầy vẫn thường nhắc nhở chúng con giữ gìn Năm giới, để không còn phải sợ đọa vào ba đường ác.

 

Thầy còn có một trí nhớ vược bực. Thầy không hề quên ai, dù đã gặp rất lâu xa về trước và không có dịp gặp lại nhưng Thầy vẫn nhớ mặt, không quên tên và cả những chi tiết, những câu chuyện Thầy đều có thể nhắc lại không hề sai sót. Phải chăng Định Lực của Thầy quả là thâm hậu ? Và Trí Tuệ của Thầy chúng con cũng không thể nào lường được cho dù Thầy luôn luôn khiêm tốn, không văn chương, không khoe khoang chữ nghĩa hay tài ăn nói, giỏi biện luận.

Pháp Phật đã hiển hiện và thể hiện nơi Thầy. Qua bóng dáng hiền hòa của Thầy. Nhớ đến bóng dáng Thầy là chúng con dốc lòng nhớ đến Pháp mà Thầy đã dùng Thân Giáo để giáo hóa chúng con.

Hôm nay, tuy rằng từ đây vắng bóng Thầy nơi ngôi chùa thân yêu nhưng Thầy đã để lại những bài học quí giá về Phật Pháp mà chúng con nguyện từ đây tu học và noi theo. Đó chính là nhớ Thầy là nhớ, là nghĩ đến Pháp. Nơi Thầy đã có Pháp và nơi Pháp vẫn luôn có bóng dáng của Thầy.

 

 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. 

 

Trúc Lâm Thiền Viện, Paris ngày 19  tháng 7 năm 2017

Lễ Tưởng Niệm Giác Linh Hoà Thượng Thích Phước Đường

Trụ trì chùa Trúc Lâm Paris.

 

ht phuoc duong


Nhớ Thầy Là Nhớ Pháp_Lê Khắc Thanh Hoài-1
*
Nhớ Thầy Là Nhớ Pháp_Lê Khắc Thanh Hoài-2
*
Nhớ Thầy Là Nhớ Pháp_Lê Khắc Thanh Hoài-3
*
Nhớ Thầy Là Nhớ Pháp_Lê Khắc Thanh Hoài-4
*









Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24639)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9483)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11168)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3628)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5387)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3262)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10808)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3750)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15218)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3519)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]