Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc Tuyển Tập “Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống & Tâm Linh”

30/07/201717:48(Xem: 4250)
Đọc Tuyển Tập “Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống & Tâm Linh”

Dao Van Binh






Đọc Tuyển Tập
“Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống & Tâm Linh”

 

Nguyên Giác

 

Có cách nào nói ngắn gọn về tuyển tập “Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống & Tâm Linh” của tác giả Đào Văn Bình? Hình như không thể nói kiểu đơn giản cho dễ nhớ, vì sức quyến rũ rất lạ kỳ; nơi đây độc giả khi mới đọc qua vài trang là sẽ được thu hút vào một thế giới rất riêng –văn phong rất cư sĩ như một Bồ tát vào đời, rất yêu nước đằm thắm để quên những nỗi đau tư riêng, rất thâm sâu như nhìn suốt hết những uẩn khuất trong lòng người, và rất ẩn mật trong một cõi tâm linh ẩn sĩ.

Khi nhà văn Đào Văn Bình viết về Đạo Phật, những dòng chữ thoạt như rất đời thường của ông hiển lộ trên trang giấy đẹp như thơ. Khi viết về đất nước, ông đứng nhìn vượt qua những cột cờ của nhiều thế kỷ và nhiều chế độ để thấy một dòng chảy sinh động từ ải Nam quan tới mũi Cà Mau. Khi viết về cuộc sống, ông từ tốn nói về phước đức đi lễ chùa, xây nhà thương, mở cô nhi viện, và về tinh yêu hóa giải các đau đớn trong đời. Khi viết về tâm linh, ông làm cho độc giả thấy rõ pháp ấn vô thường hiển lộ trên dòng văn với hình ảnh tóc xanh chuyển sang tóc trắng, khi hoa nở úa tàn dần, và sẽ thấy cách Đào Văn Bình mời gọi tịnh hóa thân khẩu ý rất đơn giản nhưng cực kỳ vi diệu ở từng suy nghĩ, từng lời, từng hành động trong đời thường.

Đây là một tuyển tập thích hợp với mọi thành phần độc giả, mọi lứa tuổi, và đọc hoài vẫn thấy như rất mới.

 

oOo

 
daovanbinh


Tuyển tập “Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống & Tâm Linh” của Đào Văn Bình do Annada Viet Foundation xuất bản, dày 560 trang, đang phát hành trên mạng Amazon, gồm 52 bài viết.

Tiểu sử sơ lược của tác giả như sau.

- Đào Văn Bình sinh năm 1942 tại Hải Phòng, quê cha đất tổ ở Khúc Thủy, Hà Đông.

- Năm 1954 theo cha mẹ vào Nam.

- Tốt nghiệp Cử Nhân Luật Khoa- Đại Học Luật Khoa Sài Gòn năm 1966.

- Tốt nghiệp Cao Học Hành Chánh – Học Viện Quốc Gia Hành Chánh năm 1968.

- 1973-1975: Phó Tỉnh Trưởng các Tỉnh Quảng Ngãi và Kiến Hòa.

- 1984 vượt biển đến Mã Lai.

- Định cư vào San Jose, California từ năm 1985.

- 18 năm làm việc cho Học Khu Oak Grove School District, San Jose, California.

- Về hưu năm 2007 và tập trung vào các đề tài Phật Giáo và Chính Trị Thế Giới.

- Sự  nghiệp viết văn: Đã xuất bản 8 tác phẩm văn chương bao gồm: Thơ, Trường Thi, Hồi Ký, Truyện Ngắn, Truyện Dài, Kịch. Dịch toàn bộ tác phẩm Chuột và Người (Of Mice and Men) của John Steinbeck. Bản dịch được đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong năm 1996.

Nhà văn Đào Văn Bình tâm sự, rằng đây là cuốn sách về Phật Giáo duy nhất của đời ông, gồm những bài viết khoảng năm 1980 khi, theo lời ông, “tôi bỗng gặp được Ông Phật ở trong tù. Qua Mỹ tôi vẫn tiếp tục viết về Phật Giáo, mạnh nhất là thập niên 1990, mãi tới nay mới hoàn thành, tính ra cũng khoảng hơn 20 năm. Một số bài đã được đăng trên Thư Viện Hoa Sen. Tôi viết dưới dạng hơi “phóng túng” pha chút “văn chương” đôi khi là Thơ nhưng tuyệt nhiên không dám xa rời Chánh Pháp.”

 

oOo

 

Bài đầu tiên trong tuyển tập là “Mái Chùa Trụ Cột Hồn Dân Tộc” – trong đó, là lời mời gọi:

“...nếu không phục hồi lại khí phách và tâm linh dân tộc thì không thể nào đoàn kết để đối đầu với những cuộc xâm lăng của đủ thứ loại ngọai bang, công khai cũng như ngấm ngầm dưới mọi hình thức.” (trang 2)

 

Nhưng tâm linh dân tộc là gì?

“Đối với người Việt Nam, tâm linh của dân tộc rất linh thiêng nhưng không huyền bí. Nó không huyền bí vì nó không dựa vào Thần Linh. Đó là niềm tin vào giáo lý của Đức Phật bằng xương bằng thịt, rồi từ đó rút ra những giá trị đạo đức cao nhất, rồi chan hòa trong cuộc sống qua một thời gian rất dài rồi trở thành truyền thống dân tộc.” (tr.3)

 

Trong đó, chùa là:

“Còn Ngôi Chùa là nơi thờ Phật và hiển nhiên là biểu tượng tâm linh của dân tộc.” (tr.4)

 

Tác giả nói chi tiết thêm, rằng chùa là nơi giải oan cho bất kỳ oan nghiệt nào, rộng mở cho bất kỳ dị biệt nào, cứu khổ độ sanh cho bất kỳ chúng sinh nào, giúp cô nhi và dân nghèo cho bất kỳ hoàn cảnh gian nan nào... (tr. 5-6).

 

Bài cuối trong tuyển tập là bài "Chữ Tâm Kia Mới Bằng Ba Chữ Tài" -- nơi đây, Đào Văn Bình viết như lời người anh dặn dò người em. Trước tiên, tác giả nói về lý của chữ Tâm trong nhà Phật:

 

“Cũng không cần phải tuân theo lời răn dạy của bất kỳ một tôn giáo nào mới có chữ Tâm. Chữ Tâm thuộc về tiên nghiệm chứ không thuộc về hậu nghiệm. Chữ Tâm hay cái Tâm nó nằm tràn đầy ở khắp hư không. Nó có cả ở trong ba đời hiện tại, quá khứ, vị lai. Nó “bất sinh, bất diệt, bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm.”  Nó chính là Phật tánh của chúng sinh. Nó cũng chính là Trí Tuệ Bát Nhã vậy.

Tuy nhiên chúng ta phải công nhận rằng nếu được chỉ bảo và tu dưỡng thì chữ Tâm sẽ được bảo bọc giữ gìn, tức không bị lu mờ, sẽ sáng tỏ giống như tấm gương được lau chùi. Song điều đó không có nghĩa là phải có giáo dục thì chữ Tâm mới hiển lộ.”(tr. 350, 351)

 

Tác giả nhắc tới các chữ "bất" trong Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là nhìn từ Bắc Tông.

Khi nhìn từ Nam Tông, sẽ thấy trong Tạng Pali, ở Kinh AN 1.49-52 - Pabhassara Sutta,  cũng nói rằng Tâm này tiên nghiệm (có sẵn trước khi sinh ra), bị bụi tham sân si nhiễm vào, nhưng cũng thực sự là không hề bị nhiễm gì hết, mà chỉ tạm nhiễm thôi, vì nếu có thực nhiễm ô thì làm sao mà giải thoát ("Luminous, monks, is the mind. And it is defiled by incoming defilements. Luminous, monks, is the mind. And it is freed from incoming defilements.")

 

Đó là nói về lý, khi giải thích qua sự, Đào Văn Bình nói về Tâm là tấm lòng: ngay thẳng, cảm thông, tha thứ, bao dung, từ bi, biết an ủi, cởi mở, hy sinh, bố thí... Và ông viết:

“Nếu nội dung của chữ Tâm là như vậy thì tận cùng sâu thẳm của chữ Tâm cũng chính là chữ Tài. Cái tài thu phục nhân tâm, tài đem lại hạnh phúc, tình thương cho mình và cho muôn loài.” (tr. 352)

 

oOo

 

Gần như tất cả các bài viết của Đào Văn Bình vừa mang đặc tính uyên áo của giáo lý nhà Phật, vừa đưa ra những giải thích đời thường rất cụ thể.

Nhưng xuyên suốt tất cả các trang sách là chất thơ. Không mấy người viết văn xuôi mang nhiều chất thơ như thế. Và bạn có thể mở ra bất cứ trang nào của tuyển tập cũng thấy chất thơ.

Thí dụ, nơi đây sẽ trích phần đầu và phần cuối của bài “Hãy Sống Với Lòng Biết Ơn” (tr. 269, 271). Trong trích đoạn, sẽ thấy tác giả dùng câu ngắn xen lẫn câu dài để tạo ra âm nhạc, thích nghi với chủ đề, dùng hỉnh ảnh cụ thể chung quanh thay cho những ý tưởng trừu tượng để ngay cả các em thiếu niên cũng hiểu được. Nhà văn Đào Văn Bình mời gọi:

 

“Hãy biết ơn Mặt Trời đã cho ta sự sống.

Hãy biết ơn từng vạt nắng đang lung linh nhảy múa trong vườn để ta cảm nghiệm được sự ấm áp của thiên nhiên.

Hãy biết ơn Mặt Trăng kia đã cho ta bao đêm dài thơ mộng mà qua đó bao bài hát, bài thơ trữ tình nảy nở.

Hãy biết ơn từng con suối nhỏ để cho ta nghe được tiếng thủ thỉ của núi rừng.

Hãy biết ơn từng cơn gió nhẹ làm lòng ta tươi mát.

Hãy tạ ơn biển đã cho ta nguồn dinh dưỡng, từng chuyến viễn du đầy thi vị và những cuộc phiêu lưu mạo hiểm làm phong phú hóa tình cảm của con người.

... ...

Hãy biết ơn cả tiếng gà gáy trong những buổi trưa hè, tiếng võng đưa kẽo kẹt, tiếng sáo diều ngân, tiếng trẻ nói bí bô, tiếng con sáo hót, tiếng ai hát đúm, hát dân ca, hát văn, hát ru, hát hò quan họ để thấy hồn Việt Nam thiêng liêng, bất tử.

Hãy cám ơn cây Đa đã cho ta bóng mát.

Hãy cám ơn cả cái Đình để xóm làng mở hội, văn hóa lưu truyền, gái trai hò hẹn.

Hãy cám ơn cả cái Miếu vì qua đó ta thấy các tiên hiền, liệt sĩ, danh nhân vẫn còn ở với chúng ta.

Hãy cám ơn mái Chùa đã đứng đó qua vài ngàn năm để lưu giữ hồn dân tộc.

Hãy cám ơn cả những chuyện thần tiên để con trẻ hay ăn chóng lớn, người già quên đi bao nỗi nhọc và gái trai nuôi bao mộng đẹp.

Hãy biết ơn tất cả dù là một hạ mưa, hạt cát, hạt muối, bó rau, miếng khoai, miếng cà, miếng sắn.

Hãy biết ơn và tạ ơn tất cả.

Lòng biết ơn là lòng Từ Bi là bài Kinh Sám Hối sâu xa và mầu nhiệm.

Kẻ sống với lòng biết ơn chính là kẻ sống với Chân Hạnh Phúc và là kẻ có tâm hồn cao thượng nhất.”

.

Có thể nói ngắn gọn, đây là một tập thơ bằng văn xuôi, viết để ngợi ca cuộc sống, nơi đó tác giả gắn liền với Phật giáo, đất nước và dân tộc. Tuyển tập này cần có trong mọi tù sách trường học và gia đình.

Độc giả ngoài Việt Nam tìm mua, xin vào trang https://www.amazon.com/ và gõ (không cần dấu tiếng Việt): “dao van binh” để mua.

Sách đã bán trên toàn cầu, mục tiêu nhằm gây quỹ cho Giải Văn Học Phật Giáo Ananda Việt Awards.

Độc giả trong Việt nam không mua trực tiếp được, nhưng có thể vào:

https://thuvienhoasen.org/a27591/gioi-thieu-hai-cuon-sach-tai-lieu-moi

và xem hướng dẫn nơi cuối bài về cách mua qua văn phòng dịch vụ ở các thành phố lớn ở VN.




dao van binh

TÌNH ĐỜI Ý ĐẠO
trong tuyển tập
ĐẠO PHẬT: ĐẤT NƯỚC, CUỘC SỐNG và TÂM LINH
của nhà văn Đào Văn Bình
 
Chúng tôi thật hân hạnh được nhà văn Đào Văn Bình yêu cầu nói vài lời giới thiệu tuyển tập “Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống và Tâm Linh” của tác giả trong buổi lễ ra mắt ngày hôm nay. Lời đầu tiên chúng tôi xin được thưa với quý vị là sau khi đọc xong tác phẩm này thì người đọc mãi lâng lâng trong tình đời ý đạo qua văn phong trong sáng, nhẹ nhàng và chân thành của tác giả như nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã viết,
 
Kiếp trước đời sau tình vẫn một,
Thời gian xuôi gửi tiếc thương về.[1]
 
Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống và Tâm Linh” là một tác phẩm văn học hiện đại Phật giáo, qua đó tác giả thể hiện cảm hứng cá nhân bắt nguồn từ hiện thực xã hội mà xuyên suốt 355 trang giấy với 52 chủ đề trong ba phần Đất Nước, Cuộc Sống, và Tâm Linh đều nhất quán ươm đượm nội dung Phật lý thâm sâu qua hình ảnh giản dị trong cuộc sống của mỗi một con người chúng ta.  Tác giả nghĩ về quê hương đất nước, ưu tư về cuộc sống trong xã hội, và nhìn về những sinh hoạt tâm linh như một gắn bó cơ cấu giữa dân tộc Việt và Phật Giáo Việt tự ngàn xưa cho đến ngày nay và mãi đến ngàn sau.
 
Tác phẩm trải dài qua 52 chủ đề với Phần I về Đất Nước có 6 chủ đề, Phần II về Cuộc Sống có 18 đề tài, và Phần III về Tâm Linh gồm 28 bài viết.  Vì thời gian quá ít nên mỗi Phần sẽ được trưng dẫn một đề tài như là một hình ảnh tiêu biểu của Phần đó trong tác phẩm.
 
I.- Bài viết đầu tiên trong Phần I về Đất Nước là “Mái Chùa Trụ Cột Hồn Dân Tộc.”Cùng một đề tài này, cố Hòa thượng Thích Mãn Giác đã viết bài thơ thật cảm động.
 
Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng,
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung, 
Mái chùa che chở hồn dân tộc, 
Nếp sống muôn đời của tổ tông.[2]
 
Và nhà văn Phạm Phú Minh đã viết bài bút ký “Chùa Là Cái Thiện Của Làng” thật văn chương, nhưng “Mái Chùa Trụ Cột Hồn Dân Tộc” của tác giả Đào Văn Bình mới thật là tha thiết tình đời nghĩa đạo, mới gắn bó tình tự quê hương, đất nước, dân tộc và Đạo Pháp hòa vào nhau thành một khối trải dài qua lịch sử hơn hai ngàn năm, khởi nguyên từ trung tâm Phật Giáo Luy Lâu trước Tây Lịch những hơn một thế kỷ như nhà thơ Trần Nguyên Liêm đã viết,
 
Hãy ngoảnh nhìn dãy đất Việt Nam,
Một dãy giang sơn mà Phật lý vẫn trường kỳ,
Cho đến ngày nay hằng bao thế kỷ,
Cho đến cỏ cây thấm nhuần Phật lý. [3]
 
Tác giả Đào Văn Bình đã ghi lại hình ảnh sinh hoạt trong xã hội Việt Nam qua văn hóa truyền thống đượm tình người, không duy linh, không duy vật mà vạn sự khởi từ tâm là bản sắc dân tộc, “Tất cả những gì nói trên, những sinh hoạt của Đình, Chùa, Miếu, Đền của làng quê Việt Nam đã kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa từ mấy ngàn năm để trở thành bản sắc dân tộc …”(tr. 4)
 
Chùa không những là nơi sinh hoạt tâm linh mà chùa còn là nơi gặp gỡ của thanh thiếu niên nam nữ như là thiên duyên tiền định của những mối tình trong sáng ngọc ngà như bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp.  Tác giả viết, “Chính vì thế mà Hội Chày Chùa Hương là một hội lớn của dân tộc, giống như những cuộc hành hương về Mecca mỗi năm của hàng triệu người Hồi giáo.
 
Hôm nay đi Chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương,
Cùng thầy mẹ em dậy,
Em vấn đầu soi gương.” (tr. 7)
 
II - Bài viết đầu tiên trong Phần II về Cuộc Sống là “Những Khác Biệt Văn Hóa Đông Tây.”  Với kinh nghiệm của một nhà hành chánh tại Việt Nam và kinh nghiệm của một nhà giáo tại Hoa Kỳ, nhà văn Đào Văn Bình đã đưa ra 41 tình huống như là các trường hợp điển hình về sự cư xử khác biệt giữa Đông Phương và Tây Phương, giữa người Việt và người Mỹ để so sánh nhằm giúp người Việt chúng ta dễ nhận ra nguyên nhân của những khác biệt và để điều chỉnh tác phong thích hợp trong môi trường sinh sống mới của xã hội Tây Phương khi sự điều chỉnh là thật sự cần thiết.
 
Tác giả Đào Văn Bình viết, “Do bối cảnh địa lý, kinh tế, văn minh, triết lý và ảnh hưởng tôn giáo khác nhau, mỗi xã hội có một nền văn hóa khác nhau.  Một nền văn hóa có thể thích hợp cho nước này nhưng chưa hẳn tốt lành cho xứ khác.”(tr. 73)
Nhưng tại sao lại có tác phong và thái độ khác nhau giữa người Đông Phương và người Tây Phương như thế?  Tác phong khác nhau đó khởi xuất từ quan niệm của mỗi dân tộc về năm giá trị văn hóa dẫn đạo (value orientations) trong hệ thống giá trị văn hóa thường được gọi là tín niệm hệ (cultural value system) sau đây.
 
Người ta quan niệm thế nào về bản tính con người (human nature), về tương quan giữa con người và thiên nhiên (man-nature relation), về thời gian và không gian (time and space), về hoạt động cá nhân (activity), và về tương quan giữa người và người (relational orientation)?[4]
 
Trong khi người Mỹ cho rằng bản tính con người là xấu nhưng có thể cải thiện được thì người Việt cho rằng bản tính con người là tốt nhưng có thể trở nên xấu do môi trường sinh hoạt; cũng vậy, người Mỹ chinh phục thiên nhiên, người Việt thuận theo thiên nhiên để hình thành hoạt động thích hợp; người Mỹ xem thời gian rất chặt chẽ, và không gian rất rộng lớn nhưng người Việt thì xem thời gian rất rộng rãi mà không gian thì rất hạn chế.
 
Cơm vua, ngày trời; đi trễ, về sớm … .
Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn… .
 
Người Mỹ sống thành thật với chính mình (being), và thực hiện (doing) như là mục đích của cuộc sống qua các thành ngữ “getting things done”, “let’s do something about it” thì người Việt sống để trở hành (being-in-becoming), sống tự chế (self-control), sống như là một mẫu mực cho con cháu.
Tương quan giữa người và người của người Mỹ là tôn trọng, bình đẳng, tranh đua trong công bằng, thương người và thương súc vật trong tinh thần bác ái của Thiên Chúa Giáo; người Việt thì tôn ti trật tự, tôn lão kính trưởng, hài hòa, dĩ hòa vi quý, chín bỏ làm mười, ở hiền gặp lành, hiếu với cha mẹ, thảo với anh chị em và thầy bạn, và thương người, thương động vật, thương thực vật trong tinh thần từ bi của Phật Giáo …
 
Trong bối cảnh khác biệt văn hóa giữa người Mỹ và người Việt như thế thì tác giả Đào Văn Bình đã đưa giáo lý từ bi, bình đẳng, tứ diệu đế và bát chánh đạo của Đức Phật đến mọi gia đình người Việt như là một mô thức sinh hoạt thiện lành để cha mẹ hướng dẫn và dạy dỗ con cháu của họ.
 
III - Bài viết cuối cùng trong Phần III về Tâm Linh và cũng là bài thứ 52 cuối cùng của tác phẩm là “Chữ Tâm Kia Mới Bằng Ba Chữ Tài.”  Đọc đến bốn trang cuối của tuyển tập này thì tôi lại càng cảm mến và thán phục nhà văn Đào Văn Bình hơn nữa qua lời nhắn nhũ khép lại quyển sách bằng hai câu thơ của cụ Tiên Điền vô cùng từ ái và liễu nghĩa.
 
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
 
Bằng một cách viết đơn giản, nhà văn Đào Văn Bình đã trình bày thật dễ hiểu một phạm trù triết học khó nhất, căn bản nhất, rốt ráo nhất của Phật học ở bình diện học thuật và của Phật Giáo ở bình diện sinh hoạt tâm linh và tôn giáo.
 
Với truyền thống văn học Bắc truyền thì Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Suramgama) tập trung giảng giải cái Tâm của con người, và từ cái Tâm thì con người mới có Thức là sự thấy biết, nghe biết, nếm biết, ngửi biết, nhận biết và hiểu biết. Nhưng cái Tâm ở trong, ở ngoài, ở trên, ở dưới, ở trước, ở sau cái căn (như nhãn căn là con mắt) hay ở giữa cái căn và cái trần (như nhãn trần là đối tượng của con mắt).  Tâm ở đâu và Tâm có từ bao giờ?
 
Với truyền thống văn học Nam truyền thì Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya) ghi lại lời Đức Phật thuyết giảng về Tâm.  Đức Phật Ngài dạy: “Nầy các Tỳ Kheo, tâm là tính tỏa sáng.  Và tâm bị lu mờ bởi phiền não bám vào.”
Nầy các Tỳ kheo, tâm là tính tỏa sáng.  Và tâm được giải thoát khỏi phiền não.”
(Luminous, monks, is the mind.  And it is defiled by incoming defilements. [I,v,9].  Luminous, monks, is the mind. And it is freed from incoming defilements. [I,v,10])
Ngài giảng rất rộng về Tâm, Tâm như một chiếc gương soi hay như một thau nước mà người nữ có thể soi vào để thấy mặt bị dơ thì đi rửa nhưng gương và thau nước vẫn có thể bị dơ thì trước khi soi phải lau sạch gương hay phải để lắng bụi trong nước xuống thì mới soi được … .  Tâm cũng vậy, phải để Tâm lắng xuống thì Tâm mới tỏa sáng được.
 
Để hiểu về Tâm là một việc rất khó thế mà qua ngòi bút của nhà văn Đào Văn Bình thì Tâm là lãnh vực có thể hiểu được vì “Chữ Tâm thuộc về tiên nghiệm chứ không thuộc về hậu nghiệm.  Chữ Tâm hay cái Tâm nó nằm tràn đầy ở khắp hư không.  Nó có cả ở trong ba đời hiện tại, quá khứ, vị lai.  Nó “bất sinh, bất diệt, bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm.” [5]  Nó chính là Phật tánh của chúng sinh. Nó cũng chính là Trí Tuệ Bát Nhã vậy.” (tr. 350-51)
 
Tâm vì thế, theo tác giả, mang nội dung lòng trắc ẩn, ngay thẳng, thành thật, cảm thông, tha thứ, bao dung, chia xẻ, giúp đỡ, từ bi, hỷ xả, hy sinh, bố thí, v.v… .  Và đặc biệt, tác giả đã viết bài “Chữ Tâm Kia Mới Bằng Ba Chữ Tài” này với hình thức một lá thư gửi cho người hiền nội “ Em yêu dấu”, như là một lời nhắn nhũ đầy yêu thương của một người chồng lương hảo dành riêng lời tâm tình cho người vợ hiền đầy yêu thương của mình.  Một lá thư phân biệt rạch ròi thế nào là chân tâm và thế nào là vọng tâm mà không phải bận tâm “vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?”
 
Kính thưa quý vị,
 
Cư sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải đã nhận xét tác phẩm này thật sâu sắc như sau, “Khi nhà văn Đào Văn Bình viết về Đạo Phật, những dòng chữ thoạt như rất đời thường của ông hiển lộ trên trang giấy đẹp như thơ.  Khi viết về đất nước, ông đứng nhìn vượt qua những cột cờ của nhiều thế kỷ và nhiều chế độ để thấy một dòng chảy sinh động từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau.  Khi viết về cuộc sống, ông từ tốn nói về phước đức đi lễ chùa, xây nhà thương, mở cô nhi viện, và về tình yêu hóa giải các đau đớn trong đời.  Khi viết về tâm linh, ông làm cho độc giả thấy rõ pháp ấn vô thường hiển lộ trên dòng văn với hình ảnh tóc xanh chuyển sang tóc trắng, khi hoa nở úa tàn dần, và sẽ thấy cách Đào Văn Bình mời gọi tịnh hóa thân khẩu ý rất đơn giản nhưng cực kỳ vi diệu ở từng suy nghĩ, từng lời, từng hành động trong đời thường. Đây là một tuyển tập thích hợp với mọi thành phần độc giả, mọi lứa tuổi, và đọc hoài vẫn thấy như rất mới.”

Tác phẩm “Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống và Tâm Linh” của nhà văn Đào Văn Bình do Annada Viet Foundation xuất bản.  Độc giả có thể đặt mua sách qua https://www.amazon.com/ và gõ “dao van binh” (không cần dấu tiếng Việt).
Sách đã bán trên toàn cầu, mục tiêu nhằm gây quỹ cho Giải Văn Học Phật Giáo Ananda Việt Awards.
Độc giả trong nước Việt nam không mua trực tiếp được, nhưng có thể vào:
https://thuvienhoasen.org/a27591/gioi-thieu-hai-cuon-sach-tai-lieu-moi 
và xem hướng dẫn nơi cuối bài về cách mua qua văn phòng dịch vụ ở các thành phố lớn ở Việt Nam.
 

Nguyên Toàn Trần Việt Long
 
(California ngày 29/7/2017)



[1]Vũ Hoàng Chương,Vân Muội (thơ)
 
[2] Thích Mãn Giác,Nhớ Chùa (thơ)
[3] Trần Nguyên Liêm,Phật giáo Việt Nam (thơ)
[4] Florence R. Kluckhohn and Fred L. Strodtbecck, Varieties in Value Orientations (Evanston: Peterson and Company, 1961), pp. 4 & 63.
[5] Bát Nhã Tâm Kinh.

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2024(Xem: 22537)
Phật giáo Việt Nam trong hai thế kỷ cận đại và hiện đại, xuất hiện một số nhân vật đạo hạnh cao vời, kỳ tài xuất chúng, có những cống hiến to lớn, dài lâu cho Đạo pháp và Dân tộc. Ngôn ngữ nhà Thiền xưng tụng những vị này là Bồ-tát, Đại sĩ, Thánh Tăng, hay Long Tượng, là những tôn danh chỉ được tìm thấy trong kinh điển, sử sách, trong lịch sử truyền miệng hoặc trên những bia đá ngàn năm nơi cổ tháp. Triết gia Phạm Công Thiện trong buổi ra mắt tác phẩm “Huyền Thoại Duy Ma Cật” của Hòa thượng Tuệ Sỹ tại thành phố Houston, tiểu bang Texas ngày 04 tháng 11 năm 2007, đã gọi tác giả là “bậc Long Tượng: Tuệ Sỹ” và diễn giải thêm, “Long Tượng là bậc Thầy của cả một dân tộc, nếu chưa muốn nói là bậc Thầy của thế giới.”
26/04/2024(Xem: 165)
Được sự chỉ dạy của TT Thích Nguyên Tạng, Trụ trì Tu Viện Quảng Đức kiêm chủ biên “trang mạng Phật Giáo online Trang nhà Quảng Đức” khi post PDF “Đạo Nghĩa Vuông Tròn “ do Thầy Thích Viên Thành thực hiện và được nhà xuất bản Hồng Đức phát hành, Phật tử Huệ Hương thật vinh hạnh được xem thật kỹ tác phẩm dầy hơn 380 trang kèm theo những hình ảnh theo từng giai đoạn.
26/04/2024(Xem: 100)
Trong chuyến hoằng pháp Âu Mỹ của Hòa Thượng Thích Như Điển từ ngày 12/3/2024 đến 17/3/2024 đến Orange County, chúng tôi- Kiều Mỹ Duyên và Thu Anh- có cơ duyên được phỏng vấn Hòa Thượng tại đài Saigon Radio Hải Ngoại, thành phố Westminster, Orange County, miền Nam California, vào ngày 13/3/2024.
23/04/2024(Xem: 563)
Năm 2024 là kỷ niệm 60 năm ngày xuất gia lần đầu, Mùng 8 tháng 2 năm Giáp Thìn (21/3/1964), cũng là đánh dấu 20 năm (2004-2024) sống trên một tiểu bang và đất nước “đáng sống”, “hạnh phúc nhất nhì thế giới” đó là Nam Úc. Nghĩ lại mình: “Đệ tử phước cạn nghiệp sâu, Chướng dày huệ mỏng, Nhiễm tâm dễ khởi, Tịnh đức khó thành, Nay xin một lòng, Tin thành sám hối”. Chắc do nghiệp chướng nhiều đời nhiều kiếp đã gieo tạo, nên khi sinh ra, lớn lên đều ở trong môi trường khiêm tốn về vật chất, còn tinh thần cũng nhiều bất hạnh với cuộc đời. Vừa bất hạnh, vừa nghèo, lại không tài giỏi, tưởng rằng sẽ phải chịu nhiều khốn khổ. Nhưng chắc nhờ ảnh hưởng bởi âm đức, có được bản tánh hiền lành, luôn hài hòa trong cuộc sống, sẵn sàng chịu thiệt thòi, cho mọi việc được hanh thông, tốt đẹp. Riêng với tự thân tin tưởng tuyệt đối vào luật nhân quả, thấm nhuần lời dạy của chư Tổ và hiểu được rằng: Phật Pháp rất nhiệm mầu. “Im lặng là vàng. Chịu thiệt là phúc. Nhẫn nhịn là bạc. Giúp người là đức”. Nên hằng
16/04/2024(Xem: 303)
Chiều về trên sông vắng, dòng sông Long Hồ chảy xiết vào mùa nước lũ, bao bọc quanh cái huyện Long Hồ, nằm ở cửa ngõ phía Bắc tỉnh Vĩnh Long, bị Sông Tiền chia cắt thành hai khu vực trông giống như hình một con chó bông nhìn nghiêng. Về vị trí địa lý Long Hồ giáp với nhiều huyện lỵ, tỉnh thành nổi tiếng như: phía Đông giáp huyện Chợ Lách tỉnh Bến Tre, phía Tây giáp thành phố Vĩnh Long và huyện Châu Thành tỉnh Đồng Tháp, phía Nam giáp huyện Tam Bình và phía Bắc giáp 2 huyện Cái Bè và Cai Lậy tỉnh Tiền Giang với ranh giới là Sông Tiền. Một vùng sông nước liên kết như thế là nơi bà Mộng Chi chọn lựa để kinh doanh kiếm tiền trong thời buổi gạo châu củi quế hồi sau giải phóng 75.
15/04/2024(Xem: 780)
Thù thắng thay, hoan hỷ thay, kính cảm niệm, cách điều hành Tu một ngày bát quan trai giới! Mỗi tháng một ngày, cho Phật Tử tại gia Gìn giữ trọn vẹn 8 giới Đức Phật đã chế ra (1) Phật tử còn ràng buộc gia duyên, cần phát nguyện, tinh tấn thực hành trọn vẹn(2) Sẽ tích lũy vô lượng công đức khi thực hiện ! Đặc biệt hôm nay 14/4/2024 nhân dịp chuyến du hành của HT Pháp Tông, trú trì chùa Huyền Không tại cố đô Huế /VN cũng là nhà Sư VIỆT NAM đầu tiên cũng là nhà sư nước ngoài đầu tiên được HOÀNG GIA THÁI LAN cúng dường TƯỚC HIỆU CAO QUÝ - CHAO KHUN (TĂNG CANG ĐỆ NGŨ PHẨM). Tu viện Quảng Đức đã dành cho các đạo hữu khoá tu bát quan trai một sự lợi lạc hoan hỷ vô cùng khi mời được HT Pháp Tông đến với bài pháp thoại chủ đề “Phật học tu tập” và sau đó là những câu hỏi của quý đạo hữu đã trải nghiệm và có chướng ngại gì để cùng Ngài thảo luận. Thù thắng thay, hoan hỷ thay, kính cảm niệm, cách điều hành Tu một ngày bát qua
08/04/2024(Xem: 539)
Tết Thanh Minh không phải là ngày lễ tết lớn trong năm, nhưng nó lại mang đậm nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Tết Thanh Minh cũng không có ngày cố định thời gian, mà là ngày đầu tiên của tiết Thanh minh, nó có thể rơi vào mùng 4 hoặc mùng 5/4 dương lịch (sau khi kết thúc tiết Xuân phân). Tiết Thanh minh là 1 trong 24 tiết khí (theo quan niệm của các nước phương Đông). Tính từ đầu năm trở đi, tiết Thanh minh đứng thứ 5, trong 24 tiết khí sau các tiết Lập xuân, Vũ thủy, Kinh trập, Xuân phân. Vào dịp Tiết Thanh minh trời mát mẻ quang đãng, thường bắt đầu sau ngày Lập Xuân 45 ngày và sau ngày Đông chí 105 ngày). Tiết thanh minh kéo dài khoảng 15 - 16 ngày.
06/04/2024(Xem: 539)
Cách đây khá lâu, tôi đã có lần đọc câu chuyện về những người phạm nhân ở trong trại cải tạo và mối tương quan đồng cảm của những người giám thị trại giam dành cho họ, đó là chia sẻ về Phật pháp, đặc biệt là đối với những tử tội. Hãy tưởng tượng rằng những người đang phải đếm ngược cái chết đến từng ngày, từng giờ khi thân thể vẫn còn đang khỏe mạnh, đó chính là nỗi ám ảnh, sợ hãi khiến tinh thần con người có thể trở nên bấn loạn, mất lý trí và họ trở thành người tâm thần, rồ dại có thể dẫn đến những việc làm tiêu cực, chẳng hạn như nguyền rủa người xung quanh, la hét, thậm chí tự vẫn trước ngày thi hành án.
03/04/2024(Xem: 910)
Có thể do một sự thần khải, thiên khải, mặc khải hoặc một phép mầu nhiệm, phép linh thiêng, phép huyền bí nào đó, hoặc do đại giác ngộ, đại ân sủng mà toàn thể loài người bỗng dưng trở thành tu sĩ! Thật đại phúc! Vui mừng khôn xiết! Mấy ngàn năm qua với bao lời rao giảng, truyền đạo, răn dạy mà con người vẫn cứ mê luyến vào cuộc sống phàm tục, sinh con đẻ cái, làm giàu, hưởng lạc thú trong cái cõi đời ô trọc này. Nay thì - đúng là ước mơ đã thành hiện thực của các giáo hội. Trong nỗi vui mừng khôn tả đó, việc đầu tiên là phải giải tán ngay phái bộ truyền giáo bởi vì mọi người đã trở thành tu sĩ rồi thì cần gì phải truyền đạo nữa? Tuyên truyền cho ai bây giờ? Còn đất đâu? Còn dân ngoại đạo nữa đâu mà tuyên truyền? Thôi thì cả triệu tấn giấy, hình ảnh, tài liệu, phim ảnh, CD, DVD, Video được đem ra đốt, bao nhiêu đài phát thanh, chương trình truyền hình, website truyền đạo cũng đều dẹp bỏ. Tuy nhiên trong nỗi hân hoan ấy việc chuyển hóa cả một cấu trúc xã hội thế tục vô cùng phức tạp qua
03/04/2024(Xem: 656)
Quả đúng vậy, chỉ vì một ý nguyện muốn đền đáp ân hội ngộ và duyên được cộng tác với Trạng nhà Quảng Đức do TT Thích Nguyên Tạng Trụ trì Tu Viện Quảng Đức kiêm và Tổng Thư Ký GHPGVNTN tại Hải ngoại Ức Châu & Tân Tây Lan làm chủ biên mà một lần nữa con có đại duyên con được tham khảo lại toàn bộ Cư Trần Lạc Đạo khi đoc qua chi tiết về Tu Viện Quảng Đức để rồi tìm lại một sưu tập cũ thật quý giá có liên quan đến bài Cư Trần Lạc Đạo khiến con suy ngẫm và tư duy nhiều đêm nên cuối cùng kính xin mượn bài viết để nhận sự chỉ dạy của quý Ngài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567