Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bàn về hai chữ Nhậm Vận

06/04/201712:27(Xem: 4700)
Bàn về hai chữ Nhậm Vận


hoa_sen (11)

BÀN VỀ HAI CHỮ NHẬM VẬN

 

Nói đến văn học Phật giáo Việt Nam thì ai cũng biết bài thơ Thị đệ tử (Dặn học trò) của thiền sư Vạn Hạnh:

 

示 弟 子

             

身 如 電 影 有 還 無 

萬 木 春 榮 秋 又 枯 

任 運 盛 衰 無 怖 畏 

盛 衰 如 露 草 頭 舖

                   

Thị đệ tử

        

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố uý

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

 

Có hai bản dịch tiêu biểu, đó là bản dịch của H.T Thích Mật Thể:

 

Thân như bóng chớp chiều tà

Cỏ xuân tuơi tốt thu qua rụng rời 

Xá chi suy thịnh cuộc đời 

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành. 

 

Và bản dịch của Ngô Tất Tố:

 

Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cối xuân tươi, thu não nùng 

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi 

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.

 

Ngoài ra còn có nhiều bản bản dịch khác nhưng không tiện dẫn ra.

 

Ở đây, chúng tôi chỉ muốn bàn về hai chữ “nhậm vận” trong câu “nhậm vận thịnh suy vô bố úy”. Câu này nhiều vị dịch thơ như sau:

 

- Theo vận thịnh suy không sợ hãi. 

- Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi. 

- Nhìn cuộc thịnh suy không sợ hãi. 

- Tùy vận thản nhiên khi lên xuống. 

- Thế cuộc mất còn chi phải sợ.

- Thịnh suy tùy vận không lo lắng.

 

Hoặc là diễn đạt ý nghĩa:

 

- Mặc cho thời vận của cuộc đời thịnh hay suy gì cũng đừng nên lo lắng mà chi.

- Đã nhậm vận, thì thịnh hay suy không làm cho sợ hãi.

- Tu tập đạt đến trình độ thông hiểu mọi quy luật của thân, vạn mộc rồi thì không lo sợ nữa. Nhậm vận tức là hằng ngày sống một cách bình thản an nhiên với tất cả mọi người, không có vấn đề gì cả. 

- Thế nên thịnh suy trong cuộc đời không có gì phải sợ hãi mà phải luôn gánh vác trách nhiệm, phải biến bị động thành chủ động để nắm lấy thời vận mà hành động một cách linh hoạt bất kể là thịnh hay suy.

- Một khi người tu hành đã đạt tới “nhậm vận” thì có thể hoà đồng giữa ngoại giới và nội tâm, vượt lên trên sự phân định giữa cái ta và cái không ta. Như vậy, “nhậm vận” như thế là biết trở về với sự an nhiên nằm trong sự vận động vĩnh cửu, một sự vận động vô thuỷ, vô chung, trong đó cuộc đời con người chỉ như là ánh chớp có rồi không, rất ngắn ngủi và sự thịnh suy như giọt sương treo đầu ngọn cỏ.

 

Theo từ điển Hán ngữ định nghĩa:

【 từ mục 】nhậm vận【độc âm 】rèn yùn

【 thích nghĩa 】nhậm pháp chi tự nhiên vận động, bất gia nhân công đích tạo tác, vị thính bằng mệnh vận an bài. (Mặc cho sự vật tự nhiên vận động, không cần thêm sức người tạo tác, nghĩa là như mặc cho vận mệnh an bài.)

【 xuất xứ 】《Tống thư - Vương Cảnh Văn truyện》: “Hữu tâm ư tị họa, bất như vô tâm ư nhậm vận.” (Hữu tâm để tránh tai họa, không bằng vô tâm để xuôi theo tự nhiên.)

【詞目】任運【讀音】rèn yùn

【釋義】任法之自然運動,不加人工的造作。謂聽憑命運安排。

【出處】《宋書·王景文傳》:“有心於避禍,不如無心於任運。”

 

Theo Tự điển Phật Quang ghi:

“Nhậm vận (任運): Đồng nghĩa: Vô công dụng. Không cần dụng công tạo tác để thành tựu sự nghiệp, cứ thuận theo sự tự nhiên của các pháp mà vận hành. Thông thường, từ Thất địa trở về trước thì phải dụng công tu tập, còn từ Bát địa trở lên thì không cần dụng công nữa, mà chỉ thuận theo pháp tính tự nhiên. Vãng sinh lễ tán (Đại 47, 439 thượng) nói: Tự nhiên nhậm vận, tự lợi, lợi tha, không hạnh nào chẳng đầy đủ. Đây là hiển bày cái đức nhậm vận tự nhiên của Tịnh độ cực lạc, đầy đủ các hạnh lợi mình và lợi người. [X. Ma ha chỉ quán Q.5].”

 

Có trên 3,500 kết quả của từ “nhậm vận” trong Đại chánh tạng, cho thấy nhậm vận là một thuật ngữ rất quan trọng trong kinh điển Phật giáo. Xin dẫn ra đây một số thí dụ: 

 

Kinh Hoa Nghiêm, No. 0279, Thật-xoa-nan-đà dịch, Q.37, tr. 193c27: “Ở trong các thú, khởi thân ngũ uẩn gọi là sanh; suy biến gọi là lão; chết mất gọi là tử. Lúc lão tử sanh ra những nhiệt não. Do nhiệt não nên đủ thứ khổ ưu sầu, buồn than tập hợp lại. Đây là do duyên mà tập hợp chứ không có cái tập hợp. Tự nhiên vận chuyển (nhậm vận) mà diệt chứ không có cái diệt.”

(於諸趣中。起五蘊身名生。生已衰變爲老。終歿爲死。於老死時生諸熱惱。因熱惱故憂愁悲歎衆苦皆集。此因縁故集無有集者。任運而滅。亦無滅者。)

 

Kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa, Q.4, tr. 37b10: “Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì cùng tương ưng với bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, nên hoàn toàn chẳng khởi các tâm chướng ngại là xan tham, phạm giới, giận hờn, lười biếng, tán loạn, ác tuệ, thì bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát-nhã ba-la-mật tự nhiên hiện tiền, không có gián đoạn.”

(舍利子。諸菩薩摩訶薩修行般若波羅蜜多。與如是般若波羅蜜多相應故。畢竟不起慳貪犯戒忿恚懈怠散亂惡慧障礙之心。布施淨戒安忍精進靜慮般若波羅蜜多。任運現前無間無斷。)

 

Luận Thành duy thức, Q.5, tr. 27a18: “Tham, si vận hành tự nhiên, cùng hiện khởi với năm thức; trong cõi thuần khổ, phiền não vận hành tự nhiên; chúng không phát nghiệp, vì là vô ký. Chúng thảy đều có thể cùng tương ưng với khổ căn.”

(五識倶起任運貪癡。純苦趣中任運煩惱。不發業者是無記故。彼皆容與苦根相應。)

 

Kinh Giải thâm mật, phẩm Phân biệt du-già, tr. 699b21: “Bồ tát Từ thị lại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, đình chỉ là thế nào? phấn chấn là thế nào? xả bỏ là thế nào? Đức Thế tôn dạy bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, khi tâm quấy động, hay khi phòng tâm quấy động, thì sự tác ý về cái đáng chán, và sự tác ý liên tục về cái tâm ấy, gọi là đình chỉ; khi tâm chìm đắm, hay khi phòng tâm chìm đắm, thì sự tác ý về cái đáng vui, và sự tác ý về cái tâm ấy, gọi là phấn chấn; hoặc chỉ có chỉ, hoặc chỉ có quán, hoặc cả chỉ quán song hành, mà khi bị nhuốm bẩn vì hai thứ tùy phiền não (là quấy động và chìm đắm như trên) thì sự tác ý mà vô công dụng, và những gì tác ý (khởi lên) trong tâm thì vận chuyển tự nhiên, gọi là xả bỏ.”

(慈氏菩薩復白佛言。世尊。云何止相。云何擧相。云何捨相。佛告慈氏菩薩曰善男子。心掉擧。或恐掉擧時諸可厭法作意。及彼無間心作意。是名止相。若心沈沒。或 恐沈沒時。諸可欣法作意。及彼心相作意。是名擧相。若於一向止道。或於一向觀道。或於雙運轉道。二隨煩惱所染汚時。諸無功用作意。及心任運轉中所有作意。是名捨相。)

 

Kim Kim quang minh tối thắng vương, Q.1, phẩm Như lai thọ lượng, tr. 407a09: “Bốn là [chư Như lai] đối với chúng sinh, một cách tự nhiên, tạm ngừng hóa độ [khi cơ duyên hóa độ đã hết], nên nói là niết bàn.”

(四者。於諸有情任運休息化 因縁故。名爲涅槃。)

 

Và tr. 407c09: “Hai, đối với chúng sinh, Như lai không nghĩ họ là ngu phu, đi theo quan niệm thác loạn, bị phiền não ép buộc, Như lai phải khai thị cho họ siêu thoát; thế nhưng do sức mạnh của từ bi quá khứ, nên đối với chúng sinh vẫn tùy trình độ, ý thích và nhận định của họ mà tự nhiên cứu độ, chỉ thị và huấn dụ cho họ lợi ích và hoan hỷ mà không phân biệt gì hết, cùng tận thì gian, không có kết thúc, đó là việc Như lai làm.”

(二者。佛於衆 生不作是念。此諸愚夫行顛倒見。爲諸煩惱之所纒迫。我今開悟令其解脱。然由往昔慈善根力。於彼有情。隨其根性意樂勝解。不起分別。任運濟度示教利喜。盡未來際。無有窮盡。是如來行。)

 

Kinh Phật thuyết A Di Đà, No. 366, Cưu-ma-la-thập dịch, tr. 348b02: “Đức Phật Vô Lượng Thọ thuyết chú Vãng sanh tịnh độ: ‘Nam mô A di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.’ Người tụng chú này thì đức Phật A Di Đà thường trú trên đỉnh đầu của người ấy; sai khi mạng chung thì tự nhiên vãng sanh.”

(無量壽佛説往生淨土呪。南無阿彌多婆夜。哆他伽哆夜。哆地夜他。阿彌唎都婆毘。阿彌唎哆悉耽婆毘。阿彌唎哆毘迦蘭帝。阿彌唎哆毘迦蘭哆。伽彌膩。伽伽那。抧多迦隸莎婆訶。誦此呪者阿彌陀佛常住其頂命終之後任運往生.)


Nhiếp đại thừa luận bản, tr. 144c02: “Nên biết như thế nào về sự tu tập các pháp ba la mật này? Nên biết sự tu tập ấy đại lược có 5 sự. Một là tu tập bằng sự nỗ lực nổi lên. Hai là tu tập bằng sự thắng giải. Ba là tu tập bằng sự tác ý. Bốn là tu tập bằng sự phương tiện khéo léo. Năm là tu tập bằng sự thành tựu việc làm. Tựu trung, 4 sự tu tập thì như trước đã nói, còn sự thành tựu việc làm là chư vị Như lai thì việc Phật vận dụng tự nhiên mà không có ngừng nghỉ, đối với các pháp ba la mật mà các Ngài đã viên mãn các Ngài lại hoạt dụng các pháp ấy.” (H.T Thích Trí Quang dịch)

(云何應知修習如是波羅蜜多。應知此修略有五種。一現起加行修。二勝解修。三作意修。四方便善巧修。五成所作事修。此中四修如前已説。成所作事修者。謂諸如來任運佛事無有休息。於其圓滿波羅蜜多。)

 

Hiển dương Thánh giáo luận, tr. 491c09: “Sáu là Hiện tiền địa: Các Bồ-tát trú trong địa này, vì trước đã khéo tu đối trị ở địa thứ năm, vượt qua tất cả Thanh văn, Độc giác địa, chứng được Cực tịnh duyên trí và phi trí, hai thứ tạo nên các hành lưu chuyển hay ngưng dứt, là vi diệu tuệ uẩn về pháp cảnh, mà phần nhiều là hữu tướng tương tục một cách tự nhiên, khiến cho diệu trí hiện ra trước mắt, cho nên địa này gọi là Hiện tiền.”

(六現前地。謂諸菩薩住此地中。先善修治第五地故。超過一切聲聞獨覺地。證得極淨縁智非智二種所作諸行流轉止息法境微妙慧蘊。多分有相任運相續妙智現前。是故此地名爲現前。)

 

Đại thừa Khởi tín luận, tr. 577b08: “Ba, [Ý] tên là hiện thức, là đối cảnh do năng kiến hình thành - Như gương sáng hiện ra hình ảnh, hiện thức cũng vậy, năm đối cảnh đối diện là biểu hiện, không có trước sau, vì hiện thức lúc nào cũng tự chuyển động liên tục.”

(三者名爲現識。所謂能現一切境界。猶如明鏡現於色像。現識亦爾。隨其五塵對至即現無有前後。以一切時任運而起常在前故。)

 

Kinh Đại thừa đại tập Địa tạng thập luân, Q. 10, tr. 773a12: “Như thế gọi là phương tiện thiện xảo thế gian của Bồ-tát. Phương tiện thiện xảo này là cộng pháp với hàng Thanh văn, Độc giác, v.v…, cũng làm nhân tố nương tựa của tất cả pháp của Phật, cũng là chỗ nương tựa của các hạnh thiện xảo, cũng là pháp thiện xảo chuyển vận tự nhiên, không nghĩ, không diệt, không thoái lui.” 

(如是名爲菩薩世間善巧方便。此巧方便共諸聲聞獨覺乘等。亦作一切佛法依因。亦是善巧諸行依處。亦是善巧任運無思滅退墮法。)

 

Kinh Đại bảo tích, Q. 39, phẩm Như Lai bất tư nghị tánh, tr. 228b28: “Nầy Xá Lợi Phất! Đức đại bi chẳng thể nghĩ bàn ấy của Như Lai chẳng do công dụng, thường chuyển một cách tự nhiên, luôn lưu bố khắp đầy mười phương thế giới không có chướng ngại.”

(復次舍利子。如是如來不可思議大悲。不由功用任運常轉。流布遍滿十方世界無有障礙。)

 

Như vậy, nhậm vận là vận chuyển, vận dụng, vận hành một cách tự nhiên, theo qui luật tự nhiên hay ngẫu nhiên, không cần tác ý hay gắng sức, không do bởi sự tạo tác của tâm thức phân biệt.

 

Trở lại bài kệ Thị đệ tử của thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta có thể hiểu như sau: Con người thì có sự sống chết, buổi sáng thấy còn đó (hữu), buổi chiều đã mất đi (vô), thân người vô thường giống điện chớp, ảnh tượng. Muôn vật, trong đó, cây cối thì xum xê, nở rộ (vinh) vào mùa Xuân, và tàn úa, rơi rụng (khô) vào mùa Thu. Đứng trước qui luật tự nhiên của sự thịnh suy, vô thường, sinh diệt nơi thân người (nội thân, bao gồm tâm thức) và muôn vật (ngoại cảnh, bao gồm hoàn cảnh xã hội), thì người tu hành không sinh tâm sợ hãi (vô bố úy), bởi lẽ, sự thịnh suy của cuộc đời, sự thăng trầm của đời sống xã hội, sự sống chết của bản thân, sự sinh diệt của các pháp hữu vi, tất cả là lẽ đương nhiên, là qui luật tự nhiên, là duyên sinh, là chân lý về Khổ (Dukkha), chúng giống như giọt sương phơi bày trên ngọn cỏ. Đó là tuệ quán của người tu hành.

 

Đó chính là tuệ quán về các pháp, như kinh Kim cương diễn tả:

 

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng, huyễn, bào, ảnh

Như lộ diệc như điện

Ưng tác như thị quán.

 

(Bởi vì tất cả các pháp hữu vi toàn là giống như chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, ảnh tượng, sương mai, điện chớp, nên cần phải có cái nhìn như vậy.)

Hay như Chứng đạo ca có ghi:

 

Đại thiên sa giới hải trung âu

Nhất thiết Thánh hiền như điện phất.

 

 (Thế giới Đại thiên nhiều như cát chỉ là bọt trong biển cả, tất cả Thánh hiền như là chớp lóe.)

 

Đó là tuệ giác vô trú bát-nhã, thấy các pháp là Như, chứ không dao động theo những thứ phi Như, tức những khái niệm về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.

 

 

20/3/2017

Quảng Minh

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2012(Xem: 3151)
Cách đây hơn một năm, nhân dịp vào Sài gòn, tội nhờ một người thân, dù sanh ra và lớn lên sau 1975 nhưng lại rất say mê thơ Hòai Khanh ( thầy NM) Chở tôi đi Biên Hòa để thăm Hòai Khanh. Mặc dù đã đọc thơ và quen biết từ nhữnng năm đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, nhưng tôi chưa có dịp nào đến Biên Hòa để thăm ông, dù những câu thơ của ông nói đến đất Biên Hòa thì tôi đã đọc từ lâu lắm rồi: Tôi về vun xới vườn hoa Cho em là gái Biên Hòa, Hàm Tân Cho tôi là kẻ cô thần Nằm đây gởi mộng dậy ngàn sương xanh
28/10/2012(Xem: 3139)
Ông Don Jacquish ở Mỹ đã tỉ mẫn trồng hàng cây số hoa hướng dương để phục vụ khách tham quan gây quỹ nghiên cứu bệnh ung thư, sau khi vợ ông qua đời.
15/10/2012(Xem: 4283)
Sáng nay, 11-10-2012, đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (China Central Television’s – CCTV) thông báo tin nhà văn Mạc Ngôn (Mo Yan) đang sinh sống ở Bắc Kinh được giải thưởng Nobel Văn chương năm 2012 chỉ cách 10 phút sau khi Hàn Lâm Viện Thụy Điển thông báo tin trúng giải. Tiếp theo là báo chí toàn quốc Trung Hoa đã rộn ràng thi nhau không tiếc lời ca tụng “vinh dự nước nhà”.
10/10/2012(Xem: 9373)
Không hiểu tại sao người ta gọi con vật ấy là chó. Cái tên này không gây nên một ấn tượng đẹp theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhất là đối với tôi, một người không mấy ưa loài động vật này. Lý do, có lẻ từ một kỷ niệm thuở mới lớn.
03/10/2012(Xem: 4427)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 3781)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 2659)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 3626)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 7387)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 7782)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567