Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

57. Mấy năm làm Thị Giả… (Thích Hạnh Bổn)

17/06/201408:40(Xem: 23919)
57. Mấy năm làm Thị Giả… (Thích Hạnh Bổn)

blank
(Thời công phu khuya hằng ngày của Sư Phụ và Chư Tôn
Đức tại Đại tháp ở Bồ Đề Đạo Tràng)

Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,

Tháng Tư vừa qua con nhận được mail của Sư Phụ báo tin cho biết, ngày 28 tháng 6 sắp đến Sư Phụ làm lễ kỷ niệm 50 năm xuất gia hành đạo và tổ chức sinh nhật 65 tuổi. Số báo Viên Giác tháng 6 đặc biệt sẽ ghi về những kỷ niệm của sự kiện nầy. Sư Phụ không tổ chức gì lớn, chỉ muốn ghi lại những dấu ấn của một thời gian xuất gia hành đạo và độ chúng, nên mong quý Thầy, quý Cô, chúng đệ tử xuất gia cũng như tại gia, viết lên “cảm nghĩ của mình” đối với Sư Phụ, một mặt nhằm góp phần cho số “báo Viên Giác đặc biệt” trong tháng 6, mặt khác để Sư Phụ có thể đọc được những cảm nghĩ của tất cả mọi người, như Sư Phụ đã viết trong E-Mail: “Thầy muốn đọc những cảm nghĩ của tất cả mọi người kể cả Cư Sĩ khi Thầy còn sống, chứ không phải chờ đến lúc chết mới viết bài. Lúc ấy Thầy chẳng đọc được gì cả. Đây là một cơ hội cho quý Thầy và quý Cô vậy”.

Hai hôm trước, tức ngày 20 tháng 5, Sư Phụ viết E-Mail cho con: “Báo Viên Giác số 201 đã có 55 người viết bài, rất hay và đặc biệt, Hạnh Bổn nên viết một bài về việc đi hầu thất Sư Phụ mấy năm ở Úc và làm Thị Giả, cũng vui thôi. Hay chỉ viết về kỷ niệm là được rồi và nếu có vài hình ảnh ở Đa Bảo lại càng tốt. Bây giờ không viết thì không có cơ hội nào để viết nữa đâu. Thời gian chỉ còn cho đến 20.5 hay tối đa là 25.5 mà thôi”.

Mặc dù ngày thi đã gần kề, và thời gian nộp bài viết cho Sư Phụ chỉ còn ba ngày, lòng con không biết làm gì hơn là viết một bài ngắn vừa kể lại chuyện hầu thất, vừa nói lên cảm nghĩ của mình, nhưng khi ngồi lại viết, tưởng đâu là dễ, ngờ đâu viết bài rất khó, mong Sư Phụ thông cảm và sửa chỗ sai cho con.

Tháng 7 năm 2004 con vào chùa, được Sư Phụ làm lễ thế phát ngày 28.8.2004, nhằm ngày vía Đại Thế Chí Bồ Tát, là ngày đánh dấu cuộc đời tu học theo chúng xuất gia, bắt đầu tập sự làm tịnh hạnh nhơn. Tuổi đã hơn ba mươi, tập khí huân tập ngoài đời đã khá nhiều, nên khi mới vào chùa theo đại chúng tu học, con gặp rất nhiều khó khăn, cũng may là có quý Thầy, quý Sư Cô và quý Bác động viên tinh thần, Sư Huynh Hạnh Giả là một trong quý Thầy đã khuyên con đừng nãn lòng, hãy nhẫn một thời gian nữa, là chuyện gì cũng qua thôi. “Nhẫn” thật là một pháp vi diệu, rồi ba tháng trôi qua và thêm một dịp may lại đến, đó là được Sư Phụ cho con theo sang Úc để hầu thất, một sự may mắn lớn nhất trong những điều may mắn cho cuộc đời xuất gia tu học Phật pháp của con.

Cuộc hành trình

theo hầu thất Sư Phụ

Trước khi sang Úc nhập thất dịch kinh, viết sách, Sư Phụ thường đến Ấn Độ trước. Tại Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, mỗi ngày khoảng 4 giờ 10 phút là Sư Phụ có mặt ở Đại tháp và bắt đầu thời khóa Công Phu Khuya, mặc dù Trung Tâm Tu Học Viên Giác vẫn có Chánh điện rất là trang nghiêm, nhưng Sư Phụ vẫn dắt con ra Đại tháp tụng Kinh Công Phu Khuya.

Lần đầu tiên đến Đại tháp, con có một cảm giác rất quen thuộc, dường như đã từng đến đây rồi không chừng. Không khí ở Đại tháp rất đặc biệt, vào trong đây con cảm nhận có một lực rất mạnh, có thể đây là năng lực của Chư Phật, Chư Bồ Tát và của đại chúng đang tu tập ở đây. Một năng lượng rất vi diệu khiến con không nhiếp tâm cũng không được.

Như đã nói, ở Bồ Đề Đạo Tràng, là nơi thanh tịnh trang nghiêm, có nhiều đoàn hành hương thường làm lễ tụnh kinh nơi tượng Bồ Tát Quán Thế Âm.

Không khí tu tập ở Bồ Đề Đạo Tràng thật đặc biệt, vì sao? Vì khi vào đây chúng ta sẽ thấy rất nhiều tông phái khác nhau qua màu sắc y phục, ngôn ngữ, nghi lễ, hành trì v.v..., các vị hành giả, mỗi vị tự thực hành theo phương pháp của mình, có vị tu Thiền, có vị tu Tịnh Độ, có vị tu Mật, v.v..., nhưng không ai trở ngại ai cả, trên gương mặt các hành giả trông rất tự tại và an lạc.

blank

(Phái đoàn hành hương các nơi đến chiêm bái BĐĐT)

Tự tại vì nụ cười của các vị tu tập ở đây rất là tự nhiên, và an lạc vì mỗi vị chỉ tập trung trong sự hành trì của mình, không có nói chuyện và rất hoan hỷ, khi có ai đến chào họ hoặc cúng dường một ly trà sữa hay một cái bánh mì. Do đó mỗi lần được theo Sư Phụ về Bồ Đề Đạo Tràng là con rất vui, về đến đây, hễ có thời gian là con xin phép Sư Phụ để ra Đại tháp lễ bái, nhiễu quanh tháp Phật (*):

“Hữu nhiễu ư tháp, đương nguyện chúng sanh,

Sở hành vô nghịch, thành nhất thiết trí”.

Nam mô tam mãn đa một đà nẩm, án đỗ ba đỗ ba sa bà ha“.

blank

(Phái đoàn Chùa Pháp Bảo thăm viếng TT Tu Học Viên Giác)

Và chỉ ngồi và quan sát các vị đang tu tập, đặc biệt là các vị Lạt Ma Tây Tạng, tâm con cũng vui rồi, vì vậy về Bồ Đề đạo tràng như được nạp thêm năng lượng.

Nhiều đoàn hành hương từ khắp nơi trên thế giới thường tập trung về đây chiêm bái Thánh tích, dưới đây là hình chụp của phái đoàn từ Việt Nam, từ Sydney, Úc Châu vào tháng 10 năm 2005.

Sư Phụ dẫn chúng con viếng thăm các thánh tích như: Khổ hạnh lâm, Linh Thứu Sơn, v.v...

blank

(Chiêm bái Linh Thứu Sơn tháng 10.2005)

blank

(Chiêm bái đài tưởng niệm Tỳ Kheo Ni Sanghamitta)

Đài tưởng niệm Tỳ Kheo Ni Sanghamitta, con gái của vua A Dục, mang một cây Bồ Đề được chiết từ cây Bồ Đề tại Bồ Đề đạo tràng sang trồng ở Capital, Anuradhapura Kandy Srilanka.

Nhờ xuất gia làm thị giả và theo hầu thất cho Sư Phụ, con được đi đó đây để quan sát đời sống của con người ở các quốc gia khác, nhờ đó tầm nhìn của con được mở rộng thêm; và suy nghĩ về sự diễn biến thăng trầm của sự sống con người theo thời gian, bị chi phối bởi thiên tai, chiến tranh, v.v...

Thất Đa Bảo Campbelltown

Thất Đa Bảo nằm trên đồi núi cao thuộc thành phố Campbelltown, là một thành phố vệ tinh lịch sử của Sydney. Campbelltown nằm 50 km về phía tây nam của trung tâm thương mại Sydney và là trung tâm hành chính đối với các khu vực chính quyền địa phương của thành phố Campbelltown.

blank

(Mỗi sáng Sư Phụ dịch Đại Tạng Kinh)

Thời Công Phu Khuya ở Đa Bảo cũng giống như ở chùa Viên Giác, vẫn đều đặn mỗi ngày.

Sau khi dùng sáng xong, Sư Phụ và quý Thầy nghỉ ngơi 30 phút, rồi bắt đầu vào công việc của mình. Riêng Sư Phụ và thầy Đồng Văn cùng làm việc chung vào mỗi buổi sáng trong thời gian nhập thất 2004, 2005.

Đa Bảo 2004

Sau khi nghỉ trưa xong, Sư Phụ bắt đầu vào công việc dịch thuật riêng của mình.

Mỗi buổi chiều Sư Phụ vẫn đều đặn hành trì, đọc tụng kinh Kim Cang.

blank

(Quý Hòa Thượng và Quý Thầy đến thăm Sư Phụ)

Ở Đa Bảo vào tháng 10 đến tháng 11, thời tiết vẫn ấm áp, do đó cỏ mọc cũng rất nhanh.

Ngoài việc dịch thuật, quý Thầy cũng chấp tác làm đẹp khuôn viên quanh thất.

Sư Phụ dịch xong một phần, liền giao cho con đánh máy vào Computer, khi đánh máy xong một cuốn sách, tiếp tục công việc dàn trang thành một cuốn sách để gởi đi in.

Thỉnh thoảng cũng có quý Hòa Thượng, quý Thầy đến thăm Sư Phụ.

blank

(Chim và thú tại Thất Đa Bảo cũng rất thân thiện với Sư Phụ)

Đa Bảo 12.2006

Vào dịp cuối tuần quý Phật tử Pháp Bảo đến Đa Bảo thăm Sư Phụ.

Thất Đa Bảo cũng có hoa, đặc biệt là thường có chim két, các chú thỏ, vịt trời, có cả Känguru. Phong cảnh ở đây rất đẹp và an lành.

Chùa Pháp Bảo 2004

blank

(Cổng Tam Quan Chùa Pháp Bảo tại Sydney, Úc Châu)

Mỗi cuối tuần vào sáng Chủ Nhật, con được về Pháp Bảo cùng học Qui Sơn Cảnh Sách với đại chúng chùa Pháp Bảo, Hòa Thượng Pháp Bảo giảng dạy chúng con rất là nghiêm khắc.

Ngoài việc dịch kinh ở thất Đa Bảo, Sư Phụ cũng dành thời gian về thăm Phật tử tại chùa Pháp Bảo và thuyết pháp.

blank

(Sư Phụ giảng pháp cho Phật tử tại chùa Pháp Bảo)

Về việc sang Úc nhập thất dịch kinh của Sư Phụ có nhiều lý do, vì muốn có một nơi yên tịnh để dịch kinh sách và muốn sang Úc thăm người anh ruột của mình, là Hòa Thượng thượng Bảo hạ Lạc. Có thể là vì hai anh em xuất gia lúc còn trẻ, thời gian sinh hoạt cùng sống chung không là bao, khi xuất gia thì lại ít gặp mặt nhau, nên bây giờ Sư Phụ tạo cơ hội để gần gũi anh của mình hơn.

Không chỉ riêng ở Nhật mới nhìn thấy hoa anh đào nở, mà chúng ta cũng được ngắm hoa anh đào ngay khuôn viên chùa Pháp Bảo.

blank

(Hai Hòa Thượng huynh đệ Thích Bảo Lạc

và Thích Như Điển)

blank

(Hòa Thượng Bảo Lạc, Thầy Phổ Huân, TS. Lâm Như Tạng và Phật tử Úc tiễn Sư Phụ và quý Thầy trở lại Đức Quốc)

Hòa Thượng Pháp Bảo, Thầy Phổ Huân, tiến sĩ Lâm Như Tạng cùng các bà con cô bác tiễn đưa đoàn về Đức.

Bốn năm theo Sư Phụ sang Úc làm thị giả và hầu thất, mỗi năm từ tháng 10 đến tháng 01 năm sau, là những ngày tháng kỷ niệm quý nhất cho cuộc đời xuất gia của con, vì đó là kinh nghiệm thiết thực trang bị cho tinh thần và đời sống của con, khi xa thầy, sang Đài Loan du học con mới nhận ra được điều nầy. Con thành thật tri ân Sư Phụ, Hòa Thượng Pháp Bảo, Thầy Đồng Văn, Thầy Phổ Huân và quý Thầy quý Sư Cô cùng tất cả các cô, các chú và các bác.

Đệ tử Thích Hạnh Bổn

Kính ghi

(*) Nhiễu tháp, sách “Luật Sa di và Sa di ni”, trang 995

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2016(Xem: 5921)
Nhưng việc ra mắt sách chỉ là cái cớ, bởi bản thân dòng thông tin ngắn gọn rằng nhà sư Thích Phước An từ đồi Trại Thủy (Nha Trang) vào Sài Gòn đã có một sức quyến rũ đặc biệt đối với bạn bè, người đồng đạo và giới quan tâm.
16/11/2016(Xem: 12012)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16322)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11300)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7481)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 20247)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4384)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4126)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3571)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13170)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]