Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Thư Tòa Soạn

17/06/201402:47(Xem: 18051)
01. Thư Tòa Soạn


blankM
ỗi năm ra sáu số báo, mỗi số dày 96 trang. Riêng số Xuân dày gần 200 trang. Bắt đầu xuất bản từ năm 1979, tính đến nay báo Viên Giác đã tròn 35 năm và đã bước sang năm thứ 36. Đây là một trong những tờ báo Việt ngữ của Phật Giáo có mạng sống lâu dài nhất tại hải ngoại kể từ sau năm 1975 đến nay.

Tiếng Việt đối với người Việt xa xứ là một món ăn tinh thần cần thiết trong lúc mới xa quê hương; nên nhiều người đã có nhu cầu đọc báo. Vì vậy mỗi tổ chức, mỗi hội đoàn và mỗi cơ sở đều có ra báo để đăng tải những thông tin của hội mình; nhưng thời gian trôi qua 20 năm, rồi 30 năm hay hơn nữa, không phải là nhu cầu nầy không còn cần đến nữa, mà điều chính yếu là làm sao để nuôi dưỡng được một tờ báo như vậy ở hải ngoại nầy, không phải là một điều đơn giản chút nào cả. Một duyên may của báo Viên Giác vào lúc ban đầu là đã có Bộ Nội Vụ Đức, đặc trách về vấn đề văn hóa và tôn giáo đã trợ lực cho chúng tôi suốt trong vòng 25 năm như vậy và đây chính là cái đà để cho chúng tôi tồn tại cũng như phát triển. Những năm trước số lượng in ấn cho mỗi lần xuất bản có khi lên đến 6.000 số và gửi đi đến tất cả gần 40 quốc gia trên thế giới; nhưng nay chỉ còn giới hạn ở con số 3.000 số cho mỗi lần phát hành. Suốt mấy mươi năm nay độc giả khắp nơi chỉ cần hỗ trợ mỗi năm 20 Euro ở trong nước và 30 Euro ở ngoài nước là Viên Giác có thể sống lâu dài mà không bị lệ thuộc bởi bất cứ một nguồn tài trợ nào khác nữa. Điều nầy xin vô vàn niệm ân các độc giả xa gần đã trực tiếp hay gián tiếp âm thầm giúp đỡ cho Viên Giác được tồn tại như vậy cho đến ngày hôm nay.

Điều băn khoăn của chúng tôi ở đây không phải là tài chánh, mà là nhân sự kế thừa tư tưởng cũng như đúng hơn là lý tưởng tự do. Vì người cũ càng ngày càng hiếm, họ phải bị chi phối bởi luật vô thường của sanh, lão, bệnh, tử. Trong khi đó lớp người sinh ra và lớn lên tại ngoại quốc ít rành rẽ tiếng Việt; nên hầu như chưa có người nào chịu dấn thân tiếp nối con đường của những người đi trước cả. Đây chính là nỗi lo của chúng tôi trong hiện tại. Do vậy điều chỉ có thể nói được ở đây là Ban Biên Tập của chúng tôi sẽ chèo chống hết mình cho đến khi nào không còn có thể tiếp tục được nữa mới thôi. Vì đây là tâm nguyện lúc ban đầu mà chúng tôi luôn muốn cưu mang chứ không từ bỏ. Chỉ mong sao thế hệ kế thừa cảm nhận được điều nầy mà nghiêng vai ra gánh vác với thế hệ của những người đi trước thì quý hóa biết là dường bao. Thế hệ của chúng tôi đã có người vào tuổi 80, người trẻ hơn thì trên 70, trẻ lắm cũng trên 60 rồi. Do vậy thời gian có thể tiên liệu là trong 5 hay 10 năm nữa phải có một cuộc cách mạng. Nếu không thì cũng khó lòng mà tồn tại với thời gian.

Chỉ riêng một việc Thư Tòa Soạn nầy cũng là một vấn đề không nhỏ. Suốt trong bao nhiêu năm dài ấy, tôi vẫn là người viết lá thư nầy. Nhiều khi nhờ đạo hữu Chủ Bút hay một cận sự nào đó viết, thì ai cũng thối thác và bảo rằng: phải am tường mọi diễn biến Phật sự cũng như tin tức đó đây mới cáng đáng nổi. Mặc dầu tôi đã không làm chủ nhiệm của báo Viên Giác từ hơn 10 năm nay; nhưng cho đến nay việc viết Thư Tòa Soạn tôi phải cáng đáng lấy. Bây giờ việc viết và gửi đi không khó mấy. Chỉ cần trong một thời gian ngắn là văn phòng chùa Viên Giác tại Hannover đã có thể nhận được rồi; nhưng 5 hay 10 năm về trước, ít nhất cũng một tuần lễ, thư gửi mới đến chùa, nhất là khi tôi có Phật sự tại ngoại quốc. Còn bây giờ chỉ cần lướt tay qua bàn phím trong thời gian vài tiếng đồng hồ là đã có một Thư Tòa Soạn rồi. Xa hơn nữa, trước đây báo Viên Giác còn phải bỏ dấu sau khi đã đánh máy xong. Thế mà việc nào cũng đã xong việc ấy suốt trong hơn 35 năm như vậy. Quả là một kỳ công của lịch sử làm báo Viên Giác tại xứ Đức nầy. Điều đặc biệt hơn nữa là chưa bao giờ báo Viên Giác ra trễ hay hủy bỏ một số nào. Công khó nầy phải niệm ân tất cả những cây bút thiện nguyện đã viết bài đầy đủ cho báo trước khi lên khuôn, rồi đạo hữu Chủ Bút tuyển chọn bài, sau đó chuyển qua cho khâu đánh máy. Sau khi đánh máy xong phải layout và dò bài lần cuối trước khi đưa cho nhà in in thành báo. Tiếp đến phải gửi báo đến các độc giả và cuối cùng là chuẩn bị cho một số báo mới.

Vào tháng 6 năm 2014 nầy đánh dấu hơn 35 năm báo Viên Giác và số 201 nầy đúng vào dịp sinh nhật lần thứ 65 (tuổi ta 66) của tôi cũng như nhân kỷ niệm ngày xuất gia và hành đạo của tôi đúng 50 năm. Đây là những sự kiện quan trọng để tạ ân Thầy Tổ, Cha Mẹ, Đàn Na Thí Chủ và những người đã trợ duyên cho mình có được ngày hôm nay, nên tại Tu Viện Viên Đức ở vùng Ravensburg cũng có một Đàn Tràng Chẩn Tế để bạt độ chư hương linh quá vãng, nhằm biểu tỏ sự niệm ân nầy. Đồng thời chúng tôi cũng như đạo hữu Chủ Bút đã kêu gọi các văn thi hữu khắp nơi dành ít nhiều thời gian để viết về những kỷ niệm, những sự kiện đã xảy ra trong suốt một hành trình dài 50 năm ấy; nên đã có nhiều Chư Tôn Đức và quý đạo hữu xa gần viết bài gửi về Tòa Soạn. Dĩ nhiên nó không chỉ thuần là những chuyện khen tặng, mà trong đó cũng có những bài viết rất dễ thương để ghi lại kỷ niệm của một thời đã qua của những người đệ tử đã từng theo học với tôi trong thời gian ấy.

Cũng có nhiều vị ngại ngùng chưa viết, vì nghĩ rằng còn quá sớm chăng để vinh danh hay luận sự. Chờ khi nào nắp quan tài đậy lại rồi, lúc ấy "luận sự" cũng chưa muộn chăng? Nhưng dẫu sao đi nữa thì tôi cũng cảm ơn tất cả Chư Tôn Đức và quý Phật tử xa gần cũng như quý vị cộng tác thường xuyên cho báo Viên Giác đã có những bài viết thật là tuyệt vời. Tôi đã đọc kỹ và cảm nhận được điều ấy. Riêng bản thân tôi hay chủ trương rằng: nếu có thấy thì nên thấy cái tốt của người khác để chúng ta còn học hỏi theo; chứ điều xấu không nên quan tâm làm gì, vì trong chúng ta đâu có ai là hoàn toàn tốt? Nếu chúng ta huân tập cái tốt nhiều trong tâm mình, khi nói ra điều gì chỉ hướng đến cái tốt. Do vậy cái xấu nó không có cớ để tồn tại trong tâm thì tâm ta sẽ rảnh rang để chấp nhận cái tốt kia một cách rất dễ dàng. Nếu có ai đó hỏi tôi rằng: tại sao Thầy học mau và nhớ lâu như vậy? tôi sẽ trả lời rằng: tôi nhớ những cái gì đáng nhớ và quên những cái gì đáng quên; nên mới nhớ lâu được như vậy. Quý vị cũng có thể thực hiện một hay nhiều lần để xem sao. Đây là phương pháp tốt để tôi không chấp chứa phiền não ở trong lòng mình và đối xử với mọi chúng sanh như là người thân của mình, không có ai là kẻ thù cả. Nếu có, chỉ là loại tam độc của tham, sân, si mà thôi.

Một mai đây tôi và quý vị sẽ chết, sẽ không còn ai lưu tâm đến mình nữa. Vì thời gian và thủy triều không thể đợi chờ ai lâu hơn được. Thời gian trôi qua, tự thời gian sẽ thay đổi lấy tính chất của mình qua từng thời đại và thủy triều mỗi ngày lên xuống hai lần, đâu có lần nào giống lần nào. Cũng như thế ấy, nước đục hay trong, không phải do nước, mà do lòng người bị nước chi phối; nên mới chấp chặt vào đó để nói đục và trong. Thực ra đục, trong cũng chỉ là những hiện tượng và những đối đãi của cuộc đời, không có gì tuyệt đối cả. Đây chính là nguyên tắc sống của tôi. Vậy nhân sự kiện 50 năm xuất gia hành đạo của mình, tôi muốn gửi gắm tất cả tâm tư cũng như tình cảm của một con người đã đến đây, đã ở chung với quý vị cũng như đã làm việc hay kết nghĩa Thầy trò, huynh đệ trong suốt một chặng đường đã qua và chặng đường còn lại trong đoạn đường sanh tử ấy. Còn lại khen, chê, thiệt, hơn, giỏi, dở, giàu, nghèo, thị, phi, nhân nghĩa... tất cả xin trả lại cho đời để cho ta nhẹ bước vân du về chốn liên đài. Ở nơi ấy sẽ không còn nhân, ngã, bỉ, thử nữa.

Năm nay lần Đản Sanh thứ 2638 của Đức Từ Phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni trên trần thế nầy, tất cả chúng con Tăng cũng như tục đều hướng về Ngài thành kính đảnh lễ và tri ân công đức sâu dày của một bậc xuất trần thượng sĩ đã mang đạo mầu đến giáo hóa cho chúng sanh trong cõi đời ngũ trược ác thế nầy. Nếu không có sự thị hiện của Ngài thì con người vẫn mãi còn lặn hụp trong vô minh của dòng sinh tử nổi trôi nầy. Do vậy tất cả chúng con đều hướng về Ngài để chí thành đảnh lễ ba lạy:

Nam Mô Lâm Tỳ Ni Viên Vô Ưu Thọ Hạ Thị Hiện Đản Sanh Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Ban Biên Tập Báo Viên Giác

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2016(Xem: 5921)
Nhưng việc ra mắt sách chỉ là cái cớ, bởi bản thân dòng thông tin ngắn gọn rằng nhà sư Thích Phước An từ đồi Trại Thủy (Nha Trang) vào Sài Gòn đã có một sức quyến rũ đặc biệt đối với bạn bè, người đồng đạo và giới quan tâm.
16/11/2016(Xem: 12011)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16321)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11298)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7481)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 20247)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4384)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4126)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3571)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13169)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]