Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

68. Người gieo mầm Phật pháp (Thích Nữ Chơn Toàn)

17/06/201408:55(Xem: 18868)
68. Người gieo mầm Phật pháp (Thích Nữ Chơn Toàn)

blank
Hủy hình thủ khí tiết

Cát ái từ sở thân

Xuất gia hoằng thánh đạo

Thệ độ nhất thế nhân.

Vâng, đó chính là hạnh nguyện cao cả của một người xuất gia chân chánh. Không chỉ tìm cầu sự giải thoát cho tự thân mà còn muốn đem sự giải thoát ấy trang trải khắp quần sinh, để đưa người vượt qua bể khổ, cùng sống trong ánh sáng mầu nhiệm của Phật pháp, cùng đến với bến đỗ của niềm an vui. Cũng không ngoài mục đích ấy, có một người đã chọn con đường xuất ly thế tục, rời xa vòng tay yêu thương của Cha Mẹ, từ bỏ hạnh phúc giản đơn nơi làng quê hiền hòa, yên ả để dấn thân trên con đường tìm cầu giác ngộ, tiếp nối bước chân mà chư Phật, chư Tổ đã đi.

Hôm nay nhân kỷ niệm 50 năm ngày mà Người đã đặt bước chân đầu tiên trên con đường tìm cầu chân lý, con xin mạn phép có đôi dòng cảm tưởng về Người, một bậc Thầy khả kính, uy nghi. Con xin thành kính đảnh lễ Thầy với tất cả niềm tôn kính và tri ân.

Vốn sinh ra trong một gia đình trung nông với truyền thống cần cù, chăm chỉ, mộc mạc, giản đơn, những chất liệu ấy dường như cũng đã nuôi lớn Thầy qua từng năm tháng, để đến tận bây giờ mỗi khi nhìn thấy chúng con vẫn bắt gặp một nét gì đó phảng phất hương quê với tất cả sự giản dị và gần gũi. Ngay từ nhỏ Thầy đã học rất chăm chỉ và luôn đạt thành tích xuất sắc trong học tập. Nhưng điều cao quý hơn là trong con người ấy hạt giống Phật pháp đã ươm mầm tự bao giờ chỉ chờ cơ hội nảy nở. Với những thiện duyên đã gieo trồng từ vô thỉ kiếp, giờ đây Người lại có mặt trên cõi đời này để tiếp tục chí nguyện hoằng pháp độ sanh. Vì thế, Người đã bước chân vào đạo ở độ tuổi được gọi là « đồng chơn xuất gia » với một tâm hồn trong sáng ngây thơ như tờ giấy trắng. Trong giai thoại Thiền thường nói rằng phải để tâm như chiếc cốc rỗng thì mới có thể rót vào đấy những dòng sữa pháp, bằng ngược lại nếu tâm đã bị đầy lấp thì không thể dung chứa được thêm gì nữa, dù có cố gắng thế nào cũng không thể cảm thụ được Phật pháp. Phải chăng Người đã đem chiếc « cốc rỗng » của mình vào Đạo nên giờ đây đã có một con người thấm nhuần giáo lý Phật Đà, có thể làm rường cột trong hàng Tăng chúng ?.

Sau khi chính thức dự vào hàng trưởng tử của Như Lai, Thầy sang Nhật du học. Tại đây Thầy vừa nghiên cứu cả Thế học lẫn Đạo học. Với tư chất thông minh sẵn có cộng thêm ý chí của một bậc « Xuất trần thượng sĩ », Người luôn đạt thành tích cao trong học tập cũng như ngày càng trưởng dưỡng về mặt tâm linh.

Một thời gian sau đó, có lẽ Phật bổ xứ, Thầy đã sang nước Đức chỉ để thăm viếng bạn bè và học tiếng Đức trong vòng một năm, thế nhưng, sợi dây nhân duyên đã vô hình buộc chặt Người với mảnh đất này như muốn nói rằng đây chính là nơi để Người thực hiện chí nguyện của mình. Tại nơi mà ánh sáng Phật pháp chưa hề soi tới này, Thầy chính là người đã được chọn để đem ánh sáng ấy xua tan bóng đêm đang hằng ngự trị nơi mảnh đất vốn chưa từng có khái niệm về Phật pháp.

Kể từ đây Thầy đã chính thức bước chân vào con đường « Xuất gia hoằng thánh đạo, thệ độ nhất thế nhân ». Lúc đầu nơi Người ở chỉ là một Niệm Phật Đường nho nhỏ. Đối với Người chỉ cần có chỗ tu tập đã là quá đủ, nhưng trong thân tâm Thầy, có cái gì đó cứ thôi thúc phải làm sao xây dựng một nơi khang trang vững chãi hơn để mọi người có nơi lễ bái cầu nguyện, nương tựa tâm linh giữa cuộc sống vội vã, náo nhiệt này. Thầy đã đem hạnh nguyện Bồ Tát để bắt tay vào công việc xây cất Chùa chiền, mặc bao khó khăn trắc trở với những lời chê trách, tai tiếng. Thế nhưng, với lòng tự tin và ý chí mạnh mẽ Thầy kiên quyết không bỏ cuộc, như Thầy đã từng dạy rằng « Người nào quyết tâm kẻ ấy sẽ thành công. Bài học này xin quý vị đừng quên ». Ngược lại, càng gặp khó khăn Người càng tu tập một cách tinh tấn, dõng mãnh hơn, bởi vì Người tin rằng chỉ cần có ý chí và quyết tâm thì chư Phật và Bồ Tát sẽ hiểu và trợ lực cho mình đi đến kết quả. Qua đó chúng con cũng hiểu được đối với Thầy không phải chỉ cần tự lực mà đôi khi phải dựa vào tha lực mới có thể hoàn thành ước nguyện.

Trong dân gian có câu « Trời không phụ lòng người tốt ». Quả thật như vậy, theo luật Nhân Quả của đạo Phật thì gieo nhân nào sẽ gặt quả ấy, trồng cam ra cam, trồng quýt ra quýt. Thầy đã gieo trồng hạt giống Phật pháp để giờ đây cây Phật pháp đã đơm hoa kết trái. Trải qua bao khó khăn thử thách để ngày hôm nay Tổ Đình Viên Giác là một đạo tràng rộng lớn khang trang đã hoàn thành trong niềm hân hoan của tất cả mọi người con Việt nơi đất khách xa xôi. Thầy đã quy y cho hàng ngàn đệ tử tại gia hướng về Tam Bảo và độ gần 50 đệ tử xuất gia. Trong đó có nhiều vị đã tốt nghiệp Cử nhân, Cao học, Thạc sĩ và Tiến sĩ tại các Đại học danh tiếng ở Âu, Á và Mỹ Châu.

Thầy cũng là người sáng lập Chi Bộ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Đức Quốc, thành lập Hội Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam tại Đức từ năm 1978, 1979. Hiện nay tại Đức có gần 20 ngôi Chùa và gần 70 vị xuất gia, Người cũng đã thành lập gần 25 Chi Hội và 7 Gia Đình Phật Tử.

Thầy là Chi Bộ trưởng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Đức Quốc cho đến năm 2003 và hiện là Tổng Thư Ký, kiêm Tổng Giám Luật GHPGVNTN Âu Châu. Người còn là thành viên Ban Hoằng Pháp của Hội Đồng Tăng Già Thế Giới của 36 quốc gia.

Năm 1988 Thầy được tấn phong lên hàng Giáo phẩm Thượng Tọa, năm 2008 Thầy được tấn phong lên Giáo phẩm Hòa Thượng vì kết quả công đức tu tập và hoằng pháp hơn 40 năm qua của Thầy.

Ngoài Việt ngữ, Thầy thông thạo các ngôn ngữ: Hán văn, tiếng Hoa phổ thông, tiếng Nhật dịch thuật, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức, đây cũng chính là điều thuận duyên khi Thầy ngoại giao với người dân bản xứ cũng như các dân tộc khác.

Suốt từ năm 1974 đến nay Thầy đã sáng tác hơn 60 tác phẩm và dịch thuật từ các tiếng Việt, Anh, Hán, Nhật và Đức ngữ, công tác biên soạn và dịch thuật chưa ngừng tại đây mà Người vẫn đang tiếp tục công việc ấy. Tuy làm việc nhiều, sáng tác hăng say, có nhiều tài hùng biện, giảng pháp, dạy học, hướng dẫn Phật tử tu tập v.v… nhưng bao giờ Thầy cũng luôn luôn khiêm tốn nói rằng: « Tôi là một nông dân của quê hương xứ Quảng » và trong suốt quá trình hoạt động đó Thầy luôn nguyện rằng: « Mình là một dòng sông để chuyên chở những trong đục của cuộc đời và sẽ là mặt đất để hứng chịu những sạch nhơ của nhân thế ».

Tổ Đình Viên Giác giờ đây chính là nơi cội nguồn để cho hàng đệ tử tứ chúng quay về nương tựa tâm linh khi mệt mỏi, để cho mình một liều thuốc bổ tinh thần và có thể bước tiếp trong cuộc đời lắm nhiêu khê này. Không ngôn từ và bút mực nào có thể diễn tả hết tấm lòng tri ân sâu sắc của mọi người đối với Thầy.

Trong cuộc sống, Người là một vị Thầy nghiêm minh và mẫu mực. Quan điểm của Thầy là « Giáo dục mà không nghiêm minh ông Thầy ấy không xứng đáng nữa ». Theo nhận xét của mọi người Thầy rất nghiêm minh trong vấn đề tu tập, Thầy sẵn sàng la rầy như thác đổ khi quý chú, quý cô lơ đễnh việc tu tập, nhưng trong các vấn đề khác Thầy lại rất thoải mái. Thiết nghĩ, đó là một việc cần thiết đối với một vị Thầy tốt, bởi vì chúng ta phải sống đúng với tư cách và đạo hạnh của một người xuất gia. Một người xuất gia có thể không cần tài giỏi, nhưng không thể thiếu đức hạnh được, cũng giống như cây xanh không thể thiếu ánh nắng mặt trời vậy. Thế nên, Thầy luôn nhìn vào chân tâm, bỏ qua những phù hoa mộng ảo bên ngoài để quay về lắng nghe tiếng nói thì thầm từ nơi bản tâm thanh tịnh sáng suốt của chính mình, để cố gắng sống một cuộc sống đơn giản, khiêm cung trong tư cách của một người Tăng sĩ và là một vị Thầy gương mẫu. Có những lúc gặp khó khăn, thử thách Thầy phân tích, đắn đo suy nghĩ rồi lại tiếp tục cuộc hành trình của mình vào cõi xa xôi diệu vợi ấy. Thầy đã lao vút vào không gian cao rộng và cảm thấy chới với giữa khoảng không nhưng Người chưa bao giờ thất vọng. Bởi vì Thầy nghĩ rằng giống như một cành cây, nếu ta đốn nó, nó phải đâm chồi nở lộc nơi khác và sẽ trổ bông, đôi khi còn đẹp hơn cành cũ nữa. Nên Thầy không và chưa bao giờ thất vọng là vậy. Để rồi giờ đây Người đã trở thành một bóng cây che mát cho đàn hậu học chúng con mỗi khi mệt mỏi trên con đường đầy sỏi đá này.

Với đầy đủ tư cách và khí chất của bậc trưởng tử Như Lai, Thầy đã dấn thân và hoàn thành mỹ mãn chí nguyện trên con đường hoằng pháp độ sanh. Thầy đã gieo mầm và trưởng dưỡng cho cây xanh Phật pháp được lan truyền. Cho đến ngày nay Thầy vẫn tiếp tục công việc cao cả ấy, Thầy đi thuyết giảng khắp nơi, chỗ nào cần Thầy liền đến không quản xa xôi, cách trở, không bỏ một thời tụng Lăng Nghiêm sáng suốt 50 năm xuất gia, trong mỗi 3 tháng An Cư Kiết Hạ Thầy phát nguyện lạy kinh Niết Bàn nhất tự nhất lễ, mặc dầu với sức khỏe ngày một yếu dần theo tuổi tác.

Thật đáng quý lắm thay !.

Mấy mươi năm chưa thể quyết định một đời người nhưng nhìn lại những gì Người đã làm cũng đủ để chúng ta có được một cái nhìn đúng đắn về cuộc đời người. Đặc biệt đối với bậc Thầy khả kính ấy, người đã trải những hòn sỏi đẹp đẽ trên con đường đầy gai góc để chúng ta có thể vững bước tìm đến cánh cửa giải thoát, vậy thì liệu chúng ta có còn suy nghĩ nhận xét gì về Người không? có chăng cũng chỉ là sự tôn kính và khâm phục tận đáy lòng. Chúng con cũng xin nguyện giữ vững đạo tâm và tiến bước trên con đường mà Thầy đã đi, đang đi và mãi đi này để khỏi cô phụ ân sâu của Thầy trong muôn một.

Ơn Thầy lớn lao chẳng nghĩ lường
Cũng vì bác ái với lòng thương
Xả thân tuổi trẻ tầm chân lý
Cầu đạo chẳng màng bậc đế vương.

blank

Cấp phát Học Bổng Hiền Mẫu Thích Bảo Lạc và Học Bổng Thích Như Điển cho học sinh nghèo

suốt 20 năm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2016(Xem: 11659)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 15950)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 10908)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7379)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 19596)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4313)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4056)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3507)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 12970)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
24/05/2016(Xem: 2988)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]