Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Chú Điển trong tôi (Trần Trung Đạo)

17/06/201407:33(Xem: 17664)
23. Chú Điển trong tôi (Trần Trung Đạo)

● Trần Trung Đạo

(Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày xuất gia

của Hòa Thượng Thích Như Điển,

Phương Trượng chùa Viên Giác,

Hannover, Germany)

Thời gian trôi trên sông đời bất tận. Bao nhiêu điều đã đến và đi trong ý thức nhưng thời gian trú ngụ ở chùa Viên Giác Hội An sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm hồn tôi. Nơi đó, mái ngói cong, tiếng chuông chùa nhẹ đưa, tiếng lá đa xào xạc, tiếng kinh khuya vọng về đã trở thành một kho tàng sinh động cất chứa một phần đời suy tư sâu thẳm của tuổi học trò.


Một buổi chiều mùa hè 1968, tôi từ Đà Nẵng vào Vĩnh Điện, rồi đón xe Lam xuống Hội An. Sau khi ngủ một đêm trong trại lính ở Tiểu khu Quảng Nam với người anh cô cậu, buổi sáng tôi đến chùa Viên Giác để đảnh lễ Đại Đức Thích Long Trí. Như chúng ta biết hôm nay, đó chính là Cố Hòa Thượng Thích Long Trí, nguyên Chánh Thư Ký Văn Phòng Viện Hóa Đạo Lưu Vong trong những năm tháng đầy khó khăn và can đảm 1990. Chúng tôi đều gọi thầy Trụ trì là Sư phụ.

Hôm đó là ngày thường, không lễ lộc gì nên chùa yên tĩnh hơn những lần tôi đến trước đây. Sư phụ vui khi gặp tôi, đứa bé sinh hoạt trong Ban văn nghệ của Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử quận Duy Xuyên. Nhưng lần này tôi đến một mình, không có các anh chị trong BHD Gia Đình Phật Tử và cũng không có cha tôi cùng đi. Tôi bạch với Sư phụ hoàn cảnh mồ côi của mình và xin cho tôi ở lại chùa để ăn học dù lúc đó tôi chưa biết sẽ học ở đâu. Sư phụ hơi ngạc nhiên về những thay đổi quá nhanh đã diễn ra trong đời tôi nhưng lắng nghe đến hết câu chuyện buồn. Với giọng ôn tồn, Sư phụ bảo tôi ở lại chùa. Ngài chỉ sang phía khu nhà đông và bảo tôi qua đó ở chung với các chú.

Khu nhà đông gồm ba phòng có diện tích giống nhau. Không ai có phòng riêng và cũng không có tiêu chuẩn đặc biệt dành riêng cho mỗi người ngoại trừ các chú lớn tuổi ở chung một phòng, đám học trò như tôi và các chú điệu nhỏ ở chung một phòng. Lúc đó chùa đã nuôi hai anh học trò khác, anh Hùng Anh và anh Sáu. Hai anh ở trọ học chứ không phải vì hoàn cảnh gia đình khó khăn như tôi. Anh Hùng Anh và anh Sáu đều rất tốt và rất thương tôi. Các anh làm hầu hết các việc nặng trong chùa. Anh Hùng Anh một thời gian ngắn sau đó đã phát nguyện xuất gia và ngày nay là một Tăng sĩ tông phái Khất Sĩ rất được kính trọng.

Mỗi phòng trong khu nhà đông có bốn chiếc giường. Một chú dắt tôi về phòng cuối cùng trong ba phòng của khu nhà đông và chỉ cho tôi chiếc giường gỗ hẹp. Một trong hai anh cho tôi chiếc chiếu rách viền và một chiếc mền cũ. Đêm đầu tiên ở chùa Viên Giác, dù tiếng muỗi vo ve và bầy rệp đang bày dạ tiệc trên thân thể thằng bé ốm oi, tôi vẫn cảm thấy an tâm. Sau mấy tháng trời bơ vơ ở Đà Nẵng, tôi đã có một nơi để ngủ mà không phải lắng nghe tiếng la, tiếng mắng và nhất là tôi biết chắc ngày mai sẽ có cơm ăn.

Như thường lệ, nếu không có việc phải làm sớm như đánh chuông hay gánh nước tưới rau, chúng tôi cùng thức dậy một lần, quây quần chung quanh chiếc giếng nước sau chùa. Không giống chú Đồng hay lớn tiếng, chú Tùng xa cách, chú Biên thích võ nghệ, chú Điển ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên đã mang lại cho tôi một tình cảm ấm áp. “Em tên gì?” Chú Điển vừa hỏi vừa giặt chiếc khăn lau mặt bên giếng nước. “Quê em ở đâu?”. Tôi đáp lời chú một cách vắn tắt. Chú không hỏi gì thêm và tôi cũng không muốn kéo dài câu chuyện về mình.

Năm tháng qua đi. Tất cả đều dần dần phôi phai và không còn quan trọng nhưng ngày đó đời tôi là một bí mật. Với tôi kể chuyện buồn riêng tư cho người khác nghe là một hình thức van xin tình cảm. Bây giờ có một người không muốn nghe tôi lại cứ bắt phải nghe cho được nhưng ngày đó tôi không muốn ai thương hại mình. Cả chùa từ bà Chín, chị Bốn cho đến các chú không ai biết nhiều về đời tôi.

Chú Điển sống ngăn nắp tưởng chừng một bộ máy cơ khí tinh vi cũng không thể chạy đều đặn, sạch sẽ và chính xác hơn sinh hoạt hằng ngày của chú. Giường ngủ của chú Điển phía bên phải của phòng thứ hai nhìn ra phía sân chùa. Một chiếc bàn nhỏ và một tủ sách. Chú có chiếc đồng hồ reo để bàn. Mỗi đêm chú lên dây, coi lại giờ báo thức trước khi đi ngủ. Tiếng reo không những làm cả chùa mà cả bà con quanh xóm cũng nghe. Không giống như đám nhóc chúng tôi, nghe đồng hồ reo, hô một hai ba là nhảy xuống giường đi quét lá quên cả súc miệng đánh răng. Chú Điển rất ngăn nắp, thứ tự. Thức dậy. Vói tay tắt đồng hồ. Vén chiếc mùng lên hai bên cân đối. Tay cầm chiếc thau, vai khoác chiếc khăn đi ra giếng. Chiếc thau rửa mặt, bàn chải đánh răng, cục xà phòng, mọi thứ được đặt đúng vị trí. Tôi rời Viên Giác một thời gian ngắn và trở lại sau khi bà Chín qua đời, chú Điển vẫn còn ở đó. Chú đang học kinh Thủ Lăng Nghiêm để đi thọ Sa Di ngoài Đà Nẵng.

Chúng tôi ăn sáng và ăn chiều chung với nhau. Phòng ăn ở phía nhà tây sau giảng đường. Hai chiếc bàn dài nối nhau. Thức ăn nhiều nhất là rau lang. Lang luộc, lang xào, lang nấu canh, nói tóm lại là lang bảy món. Những ngày Rằm và Mùng Một có thêm đậu khuôn chiên vì chùa làm đậu khuôn ra chợ bán. Mì căn hay nấm rơm xào bún tàu là những món cao lương mỹ vị, họa hoằn mới có. Chúng tôi sống thật khắc khổ nhưng không có một tiếng than van. Dường như hoàn cảnh chế ngự những nhu cầu trong cơ thể nên tôi cũng không thấy thèm thịt cá. Thời gian chúng tôi dành nhiều nhất trong ngày là học và đọc. Những đêm nóng nực hai chú cháu rủ nhau vác chiếu ra ngoài hiên chùa nằm ngủ. Nửa đêm thức dậy nhìn ánh trăng soi sáng sân chùa rộng. Ánh trăng vàng và tiếng lá đa xào xạc tạo nên một khung cảnh vô cùng thiêng liêng và huyền bí trong tâm hồn tôi từ đó đến giờ.

Nhắc đến đậu khuôn. Đây có thể là sinh hoạt kinh tế chính của chùa. Mỗi tháng hai lần vào các ngày mười bốn và ba mươi hay hai mươi chín nếu là tháng thiếu, các cô Trợ, cô Năm, cô Chiến từ Cẩm Nam sang để giúp chùa làm đậu khuôn. Ngoại trừ Sư phụ, cả chùa đều dậy rất sớm. Sản xuất đậu khuôn gồm nhiều bước phụ thuộc vào nhau và mang tính dây chuyền. Giai đoạn xay đậu cần ít nhất hai hay ba người. Một chú khỏe mạnh hay hai chú nhỏ phụ trách xay và một người làm công việc “cho ăn” tức tém đậu vào lỗ chiếc cối đá thô sơ và nặng nề, thêm nước vào đậu khi cần. Xay xong, nước đậu được chuyển sang một người khác để lọc hết xác bằng một chiếc khăn vải trắng, giai đoạn này gọi là bòng đậu. Sau khi bòng tới bòng lui mấy đợt, nước đậu được đun sôi có thêm một chút thạch cao để đông đặc nhanh sau khi đổ vào khuôn. Người phụ trách công việc cuối cùng và khổ nhất là chú Ngô. Chú Ngô phải gánh đậu ra chợ Hội An để bán. Bán không hết đem về làm chao. Chị Bốn chưa bao giờ sai tôi đi bán đậu với chú Ngô mà dù có sai tôi cũng không đi. Tôi chỉ làm những công việc trong chùa. Ở ngoài không ai biết gì về tôi. Nhiều bạn học trong lớp cũng không biết tôi ở chùa Viên Giác. Những năm đầu, chú Điển, anh Hùng Anh thường phải xay đậu, tôi tập “cho ăn”. Cô Trợ, cô Năm, chị Bốn, chị Minh Đức phụ trách nấu và đổ nước đậu vào khuôn. Khi chú Điển đi du học, tôi lớn hơn và thay vào vị trí xay đậu. Các em học trò khác như Nhiêu, Sơn, Hoàng lo phần “cho ăn”. Nếu ai hỏi đồ vật gì trong chùa để lại trong lòng chúng tôi nhiều kỷ niệm nhất, tôi sẽ trả lời ngay đó là chiếc cối xay. Và chú Điển có thể cũng sẽ trả lời như thế. Tôi già rồi, dòng nước mắt của tuổi thơ đã cạn theo chiến tranh và tàn phá nhưng nếu nhìn lại chiếc cối xay, biết đâu tôi vẫn còn khóc được. Chiếc cối đá thân yêu đã giúp nuôi sống tôi, chú Điển và cả chùa qua nhiều năm tháng khó khăn.

Trong số những em học trò vào chùa trọ học sau tôi, tôi thương Nhiêu nhất và nó cũng thương tôi nhất. Nhiêu là đứa bé có tâm hồn phong phú. Ngày tôi ra đi, Nhiêu là một trong vài em đã ra tận Đà Nẵng để tiễn đưa tôi. Nhiêu là con duy nhất của thầy Bảy. Gọi là thầy theo ý nghĩa các thầy cúng ở nhà quê nhưng thầy không thật sự xuất gia. Gia đình thầy ở Thanh Chiêm, Duy Xuyên, gần nhà chú Điển. Tôi có theo Nhiêu về nhà thăm thầy Bảy một lần. Thầy Bảy ngọng, nói rất khó nghe nhưng đánh trống Bát Nhã tuyệt hay. Âm vang của hai chiếc dùi thầy nhịp vào thành trống dồn dập vào đoạn cuối làm tăng không khí trang nghiêm cho buổi lễ. Bây giờ mỗi khi nghe những CD trống bát nhã vang lên trong những ngày lễ ở chùa, tôi lại nhớ đến tiếng trống của thầy Bảy và tin chắc rằng thầy Bảy đánh trống hay hơn. Những đại lễ như Phật Đản hay Vu Lan, Sư phụ thường mời thầy Bảy về chùa đánh trống. Tôi vào Sài Gòn không được bao lâu thì nghe tin Nhiêu chết. Em đạp phải mìn trên đường từ Câu Lâu đi xuống phía dốc Phú Chiêm. Năm đó Nhiêu mới chừng 16 tuổi. Tôi biết tin trễ, mà dù biết sớm cũng không về được. Học hành bận rộn, đi lại khó khăn và đời sống của tôi cũng vô cùng chật vật nên chỉ biết ngậm ngùi thương nhớ em.

Ngoài việc đi học ở trường, phụ chị Bốn lo cơm nước, chúng tôi học bài và đọc sách. Chú Điển học bài và đọc kinh. Tôi niệm Phật mỗi đêm để tìm một nơi nương náu bình an cho tâm hồn đầy sóng gió nhưng ít đọc kinh ngoài công phu chiều và công phu khuya. Phần thời gian còn lại trong ngày tôi dành đọc sách. Năm đó tôi mới 14 tuổi. Không phải sách nào tôi cũng hiểu, đúng ra rất ít sách tôi hiểu hết nhưng vẫn cố ghi vào ý thức của mình được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Tôi thích nhất là bộ Lịch sử đệ nhị thế chiến của Winston Churchill do Thẩm phán Trần Minh Tiết dịch. Cuốn sách dày cả ngàn trang in chữ nhỏ li ti nhưng tôi đọc đi đọc lại mấy lần. Phòng sách nằm trên lầu và muốn lên phải bước ngang qua phòng ngủ của Sư phụ. Biết tôi thích đọc sách nên dù tôi có gây tiếng động trên lầu Sư phụ cũng không nói gì. Nhờ vậy, tháng Chín, 1972, tôi rời Viên Giác với một hành trang kiến thức rộng và dày hơn nhiều so với các bạn cùng thế hệ.

Các chú ai cũng học giỏi. Chú Điển học tháng nào cũng đứng nhất và có trí nhớ tuyệt vời. Bài học ở trường chú chỉ đọc một hai lần là xong trong khi tôi phải lặp đi lặp lại nhiều lần. Sau này những bài thơ dài nhất của tôi như bài Bao Giờ Nhỉ Tôi Về Thăm Xứ Quảng hay bài Nhớ Cây Đa Chùa Viên Giác chú Điển đều thuộc lòng trong khi tác giả của chúng nhiều khi còn lúng túng khi có người đề nghị đọc. Thời đó, sổ học bạ mỗi tháng đều phải trình lên Sư phụ ký. Tôi rất ít khi được đứng nhất trong lớp nên thường chờ đến gần hết hạn nộp lại cho trường mới rụt rè đem trình Sư phụ. Sư phụ chúng tôi rất bận, sáng ra đi có khi chiều tối mới về chùa nên ít khi hỏi han chuyện học hành của chúng tôi. Khi đứng vị thứ cao, Sư phụ thưởng một trái cam và đứng thấp thầy cũng không quở trách nhiều.

Năm tôi vào chùa, chú Điển học đệ tam ở trường Trần Quý Cáp và là người học lớp cao nhất trong chùa. Chú Thứ học cùng lớp với tôi và học rất giỏi. Chú Thứ là thị giả của Sư phụ và biết lái xe Jeep khi còn rất nhỏ. Chú Đồng, chú Ngô, chú Đức không đi học. Một số chú khác vào sau tôi không nhớ hết tên. Thỉnh thoảng tôi thấy các bạn học của chú Điển đến thăm. Một vài người trong số họ gốc Minh Hương ở dưới phố Hội An và rất mến chú Điển. Chú Điển lớn hơn tôi 5,6 tuổi gì đó nhưng tôi xem chú là bậc thầy và tấm gương mà chúng tôi noi theo. Chú là Chúng trưởng trong chùa. Không chỉ chúng tôi mà cả Sư phụ cũng nể trọng chú. Trong thâm tâm mọi người đều biết, dù ngày mai có ra sao, chú Điển cũng sẽ là vị Trụ trì kế tiếp của chùa Viên Giác.

Mỗi tháng chùa Viên Giác họp một lần trong giảng đường. Sư phụ chủ tọa và chú Điển điều hành buổi họp. Mỗi người, kể cả Sư phụ đều kiểm điểm công việc mình làm trong tháng, những điểm hay và những thiếu sót đều được nêu ra. Chú Điển thường đại diện cho đại chúng phát biểu về những chuyện trong chùa. Nhiều khi cũng có những cuộc tranh luận phải trái rất căng thẳng. Phần đông các chú thường nghe theo lời chú Điển. Tôi nhỏ nhất, một học trò trọ học và công việc chính là quét lá đa nên không có gì nhiều để thưa trình.

Chín năm sau, năm 1981, khi tất cả từ chú Điển, chú Đồng, chú Thứ, chú Ngô đã ra đi hết, tôi trở lại chùa. Sư phụ và tôi ngồi trong giảng đường, nơi chúng tôi đã từng ngồi mỗi tháng, nhắc lại những chuyện ngày xưa. Sư phụ không trách ai, chỉ còn lại trong lòng Ngài một nỗi ngậm ngùi và thương nhớ từng người con đi xa. Nhưng rồi tôi cũng ra đi để lại Sư phụ, ngôi chùa Viên Giác, hai cây đa và bao nhiêu gánh nợ của kiếp nhân sinh đè nặng trên đôi vai già nua của Sư phụ cho đến khi Ngài viên tịch.

Chú Điển rời Viên Giác năm 1969 để vào Sài Gòn học xong bậc trung học và sau đó du học tại Nhật Bản. Trước 1975, tôi không nhớ chắc nhưng hình như có gặp chú lại một lần ở chùa Hưng Long trong một dịp chú về thăm. Mấy chục năm sau khi tôi sang đảo Palawan, Philippines mới liên lạc lại với chú Điển, ngày đó đã phát nguyện hoằng dương chánh pháp ở Đức. Trong mỗi lá thư, chú Điển luôn kèm theo một ít tiền để tôi sống trong thời gian tạm cư ở trại.

Ai bảo thời gian như bóng câu qua cửa sổ nhưng trong thực tế có thể còn nhanh hơn thế nữa. Cuối tháng Sáu này chú Điển sẽ kỷ niệm nửa thế kỷ xuất gia. Chú Điển ngày nay là Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác nhưng trong tâm hồn tôi hình ảnh bao dung, hiền hậu và rất dễ dàng tha thứ vẫn còn nguyên vẹn.

Không phải hôm nay, khi viết về Hòa thượng Phương Trượng chùa Viên Giác tôi chỉ nên viết những điều tốt đẹp. Không, tôi sẽ từ chối nếu phải viết những điều không thật với lòng mình. Thời gian sống với nhau ngắn ngủi, chỉ hơn một năm, nhưng đó là nhân duyên hiếm quý trong đời người. Tôi vô cùng trân trọng và biết ơn chú Điển. Cây đa già đã chết nhưng bóng đa vẫn còn che mát tâm hồn chúng tôi từ dạo đó đến nay và mãi mãi sau này.

●Trần Trung Đạo
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2018(Xem: 3506)
Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn, Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn Chữ bay từng cánh chim ngàn Mỗi câu là mỗi Niết bàn hóa thân. Xin phép được “tựa” vào hai câu thơ của cố Giáo sư Vũ Hoàng Chương, để bước vào thế giới văn chương của Văn Công Tuấn. Vì rằng, có lẽ, anh đã có nhiều duyên lành để dung thông với tư tưởng uyên áo của các bậc Thầy khả kính nơi ngôi trường Vạn Hạnh của ngày xưa Sài Gòn. Cũng như sau nầy có nhiều thuận duyên để tìm hiểu thêm về tư tưởng các danh nhân trên thế giới. Trong đó anh đã dành cảm tình đặc biệt với văn hào Hermann Hesse. Người đã được thừa hưởng “gia tài tâm linh” của một “ông lái đò” qua câu chuyện dòng sông. (“Khi dòng sông phẳng lặng thì bóng dáng chân như sẽ hiển bày”).
01/04/2018(Xem: 15285)
Chánh Pháp, số 77, tháng 4.2018, ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ XUÂN ĐẾN VUI GÌ? (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ NỘI DUNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ KHI GIỮA ĐỜI THƯỜNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 12 ¨ BẢN TÍNH CON NGƯỜI VỐN VỊ KỶ HAY VỊ THA? (Nguyên Hạnh dịch), trang 13 ¨ THƯ CUNG THỈNH CHỨNG MINH/THAM DỰ ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL.2562 (TK. Thích Pháp Tánh), trang 15 ¨ HOÀI NIỆM HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ (Quách Tấn), trang 16 ¨ CÔ ĐỘC HÀNH, HOÀI HƯƠNG (thơ Phù Du), trang 18 ¨ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG, t.t. (Tuệ Uyển dịch), trang 19 ¨ KHÓC TỐ NHƯ (thơ Diệu Viên), trang 22 ¨ ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU: NI SƯ THÍCH NỮ NHƯ THỦY VIÊN TỊCH (Tổng vụ Ni Bộ), trang 23 ¨ TƯỞNG NIỆM NI TRƯỞNG THÍCH NỮ NHƯ THỦY (TN Như Đức), trang 24 ¨ NHỮNG BÀI HỌC TỪ CÁCH ỨNG XỬ (TN. Như Bảo), trang 26 ¨ MỘT VẦNG TRĂNG (thơ Vĩnh Hảo), trang 27 ¨ VEN. SANGHARAKSHITA (1925 -)
25/03/2018(Xem: 4126)
Khi dòng sông phút trước không còn là dòng sông phút sau, thì đời người phút trước cũng không giống đời người phút sau. Theo dòng thời gian, mọi thứ trôi qua còn nhanh hơn thế nữa. Nhưng thời gian có không, trong sự dịch chuyển của đơn vị vật chất nhỏ nhất (neutron, proton, quantum, photon...)? Một phần triệu giây, hoặc ngắn hơn! Có đơn vị thời gian nhỏ nhất hay không? Có tên gọi cho một khoảnh thời gian quá nhỏ nhiệm như thế không? Thời gian, đối với lý thuyết vật lý hiện đại, chỉ còn là một khái niệm, dường như có, dường như không, hoặc không hề tồn tại, hoặc tồn tại như một ảo tưởng, ảo giác từ tâm thức, hoặc như là một mộng ảo từ sự sinh diệt của một lượng tử, một hạt ‘ánh sáng’ hay ‘sóng’ mơ hồ tức-hữu tức-vô. Long Thọ (1) từ thế kỷ thứ hai chẳng đã từng nói là không làm gì có thời gian hay sao! (2) Vì thời gian do nơi vật thể mà có; mà vật thể như photon (hạt căn bản—elementary particle) còn không thể nói là có hiện hữu như là một “vật” thì thời gian làm gì hiện hữu? (3)
24/03/2018(Xem: 3858)
Nghe, lắng nghe, và không nghe khác nhau ở điểm nào? Nghe. Dĩ nhiên là bằng đôi tai rồi. Nhĩ căn tiếp nhận, giao lưu với Thanh trần. Nhưng có kiểu nghe mà không nghe. Âm thanh vẫn chảy vào, chui vào, tấn công vào hai bên màng nhĩ, mình cảm nhận được là mình đang có nghe, nhưng mình chỉ biết là có nghe vậy thôi, chứ không rõ là mình đang nghe cái chi chi, cái gì gì. Nhà thiền có một công phu, thôi, gọi là phương pháp cho dễ hiểu, là phương pháp mở rộng hết, mở toang ra cả lục căn (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý) để đón nhận lục trần (sắc thanh hương vị xúc pháp) trong cùng một lúc.
16/03/2018(Xem: 15362)
Bí Mật Xứ Tạng (sách pdf) Thích Minh Thế
13/03/2018(Xem: 14392)
Cùng là một tảng đá, một nửa làm thành tượng Phật, một nửa làm thành bậc thang. Bậc thang không phục hỏi tượng Phật rằng: - Chúng ta vốn dĩ cùng là đá, tại sao người ta chà đạp tôi, nhưng lại sùng bái người?! Tượng Phật trả lời: - Vì người chỉ chịu 4 nhát dao đã có được hình hài đó, còn ta lại trải qua trăm ngàn ngọn dao đục đẽo, đau đớn muôn vàn. Lúc đó bậc thang im lặng... Cuộc đời con người cũng thế: Chịu được hành hạ, Chịu được cô đơn,Gánh được trách nhiệm, Vác được sứ mệnh, Thì cuộc đời mới có giá trị...
12/03/2018(Xem: 6849)
Tắt máy. Xuống xe, Mỉm cười. Bình yên. Dạ thưa, con đã đi, mới vừa thượng sơn, và con đã đến. Lạy Phật. Lạy Pháp. Lạy Tăng. Những bước chân khẽ khàng, nhẹ bổng của con đi trên đất, qua sân chùa, theo Thầy từng bậc cấp lên gác chuông, đều cảm nhận được nguồn năng lượng của an lạc.
10/03/2018(Xem: 3901)
Tiếng Việt thời LM de Rhodes - sinh thì là chết?, Các phần trước của loạt bài "Sinh thì là chết?" (11.1, 11.2 và 11.3) đã ghi nhận khả năng liên hệ sinh 生 trong sinh thì với cách đọc Hán Việt thăng[2] 升 và phương ngữ ở phía Nam Trung Quốc (TQ) qua dạng sing/seng (shēng bình thanh, giọng BK bây giờ), hay là một cách dùng nhầm của tiếng Việt[3] (so với nghĩa sinh thì/sinh thời trong tiếng Việt hiện đại). Phần này bàn về khả năng sinh thì là kết quả thể hiện qua ngôn ngữ từ tư duy tổng hợp của người VN: kết hợp lòng tin Công giáo với truyền thống tôn trọng người đã ‘qua đời’ qua uyển ngữ Hán Việt (HV). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn
03/03/2018(Xem: 18168)
Vừa qua, bản thảo cuốn sách này, « Con Người và Phật Pháp » được tác giả Lê Khắc Thanh Hoài gởi đến cho tôi với lời đề nghị tôi có vài dòng đầu sách. Tôi có phần e ngại, vì có thể tôi không nắm rõ hết ý tưởng của tác giả và cũng có thể không nêu hết ý nghĩ của mình. Thế nhưng đối với một tác giả, một nữ cư sĩ Phật tử trí thức thuần thành, một nhà văn, một nhà thơ và là một nhạc sĩ mà tôi vẫn lưu tâm, cảm phục, cho nên tôi quên đi phần đắn đo mà mạnh dạn có mấy dòng, gọi là chút đạo tình và lòng trân trọng đối với chị Thanh Hoài.
01/03/2018(Xem: 11610)
- "Động Cửa Thiền" (ĐCT) là truyện ngắn đắc ý nhất của Tâm Không Vĩnh Hữu (TKVH), đã được rất nhiều trang web đăng tải, được người khác chuyển thể thành thơ lục bát, được vài tổ chức phi chính phủ đưa vào audio "đọc truyện", được đến 2 nhóm điện ảnh tự ý chuyển thể kịch bản phim để tham dự Liên hoan Phim Ngắn Quốc Tế, và cũng được nhiều tác "giả" tự tiện cải tên đổi hiệu lấy làm sáng tác của chính mình...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]