Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giá trị Một Bài Thơ: Hoa Nhân Quả

09/03/201418:19(Xem: 4998)
Giá trị Một Bài Thơ: Hoa Nhân Quả
minh_hoa_quang_duc (163)

HÃY CHỌN VÀ PHÂN TÍCH, BÌNH GIẢNG MÔT BÀI THƠ MÀ EM THÍCH NHẤT

ĐỂ THẤY GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA NÓ ?.

Từ vô thỉ đến nay, giác tánh nơi tạng thức con người thường thanh tịnh trong sáng hoàn toàn, vốn không có sự cấu uế tạp nhiễm, cũng không có những huyễn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Trong giác tánh ấy, không có gì được gọi là sinh hay diệt, vì sanh hay diệt chỉ là giả danh. Vả lại, sanh là tướng huyễn sanh, diệt là tướng huyễn diệt. Nghiệt vì con người chưa từng tĩnh thức, cho nên không thấy được tánh giác nơi tạng thức này. Vì vậy, khi đối trước ngoại cảnh, khởi tướng chấp ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả là thật có, hoặc khởi niệm sai khác chấp thủ về thân ngũ uẩn, đối với các pháp lại chấp là thật. Tất cả đều từ vọng tưởng và tưởng thủ của thức từ ba độc sanh ra. Kể từ đó, nghiệp thức có mặt, dòng sanh diệt và tái sanh không dứt. Nào có am tường rằng, việc làm Phật, Thánh hay phàm phu, việc sanh lên cõi trời hay đọa địa ngục đều do ở nơi hành động, tác ý của mình. Đó chính là luật nhân quả. Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua sự liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người. Vạn pháp làm nhân, làm duyên cho nhau và tương quan phụ thuộc lẫn nhau. Điều đó được thể hiện rõ qua bài thơ :"Hoa nhân quả" của thi sĩ Mặc Giang. Vậy thì, trong một kiếp người, tại sao chúng ta không đào sâu, nghiên cứu, tu tập?.

Thế giới không hoa, thân người mộng huyễn, hết thảy các pháp đều thuộc vô thường không thể cậy trông. Mặc Giang thương xót, thao thức trở trăn, người đã đem đến cho chúng ta hơn một nghìn năm trăm bài thơ có ý nghĩa và giá trị chân thật khiến tắt lửa phiền, cạn lòng ái dục, thoát ly sanh tử. Và "hoa nhân quả" là một trong những bài thơ đó, nó như một ngọn hải đăng dẫn đường cho những ai tìm về bến đỗ, giải thoát, hạnh phúc và an lạc.

Hẳn ai trong chúng ta đều biết rằng, Héraclite, một triết gia Hy Lạp cổ đại bảo rằng: "Không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông''. Điều đó nói lên sự chuyển biến liên tục của con người và thế giới, sự vật hiện tượng. Tất cả hiện hữu ấy đều là hiện hữu của tương duyên, chúng luôn diễn ra trong vòng nhân quả. Và cũng trong mối tương quan nhân quả này, vấn đề luân lý đạo đức được đặt ra dưới tên gọi của nghiệp thiện và nghiệp ác. Vì vậy, nói đến nhân quả là nói đến tiến trình tạo tác của con người, từ đó, hình thành đời sống an lạc hoặc khổ đau. Trong đó, mỗi tư duy và hành động cụ thể là một động lực kiến tạo nên trạng thái bất an hay an lạc, cuộc sống hạnh phúc hay bất hạnh mà con người làm vai trò trung tâm và chủ động, chứ không một đấng quyền năng hay một đấng tạo hóa, thần thánh nào trong tiến trình tạo tác ấy. Nhân quả là một định luật tất yếu không thể sai chạy được, hễ đã gây nhân gì thì tất nhiên phải có quả báo ấy để đền đáp lại. Chính vì vậy mà mở đầu bài thơ "Hoa nhân quả", Mặc Giangviết:

'' Đã gieo nhân thì làm sao không có quả

Đã có quả thì làm sao không có nhân

Hỡi nhân sinh trong cuộc sống hồng trần

Đừng lẫn thẫn buông lung mà đọa lạc."

Vậy, thế nào là nhân? Thế nào là quả? Nhân quả là gì? Tại sao nhà thơ lại nói :"Đã gieo nhân thì làm sao không có quả và đã có quả thì làm sao không có nhân"?.

Nhân là nguyên nhân. Qủa là kết quả. Nhân là mầm, là hạt. Qủa là cây, là trái. Nhân là năng lực phát động, quả là sự hình thành của năng lực ấy. Trong mối tương quan nhân quả này, mỗi hiện tượng vừa là kết quả, vừa là nguyên nhân. Từ nhân đi đến quả có nhiều duyên. Chính vì lẽ đó nên nhân quả còn được gọi đầy đủ là nhân duyên quả. Một nhân không thể đưa đến một quả và một quả không thể đưa đến một nhân.

Chúng ta thường nghe :"gieo nhân nào gặt quả nấy", hay là: "gieo gió gặt bão". Thật vậy, khi trồng cây cam ra trái cam ngọt, trồng cây chanh chua thì hái được quả chanh chua. Vì trồng cây cam nên hái được quả cam, ngược lại, hái được quả cam là nhờ ta đã trồng cây cam, chính vì thế mà nhà thơ nói "đã gieo nhân thì có quả, mà đã có quả thì phải có nhân". Nhân quả ấy tuy đẳng loại, tức cùng một giống nhưng nó còn tùy thuộc vào các duyên trung gian tác động vào mạnh hay yếu, thuận hay nghịch mà quả có thể hình thành sớm, muộn, hay có thể không hình thành và quả có thể cùng loại với nhân nhưng vẫn khác với nhân. Mặc Giang phân tích nhân quả một cách rõ ràng như thế để rồi nhẹ nhàng nhắc nhở mọi người: "đừng lẫn thẫn buông lung mà đọa lạc".

Tại sao như vậy? Vì khi đã gieo nhân rồi thì: "giả sử bách thiên kiếp , sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ" (Quy Sơn Cảnh Sách văn). Gỉa sử trải qua trăm ngàn đời kiếp đi nữa, cái nghiệp mình đã tạo ra vẫn không tiêu mất, một khi nhân duyên gặp nhau đủ mặt thì quả báo của nó mình phải tự chịu lấy. Hoặc như kinh pháp cú từng dạy:

"Không trên trời dưới biển

Không lánh vào động núi

Không chỗ nào trên đời

Trốn được quả ác nghiệp".

Vì vậy, chúng ta hãy cẩn thận chớ buông lung, phóng dật và tạo nghiệp nhân không tốt rồi phải lang thang mãi trong vòng luân hồi sanh tử. Để làm được điều đó, khổ thơ thứ hai nhà thơ viết:

"Mỗi hành động trong hành vi tạo tác

Mỗi ý niệm vừa phát khởi trong tâm

Tất cả đều đã gieo một hạt nhân

Mới băng qua là trở thành quá khứ".

Xưa kia tạo nên bao ác nghiệp, đều do thân, miệng, ý gây ra. Tâm là đất gieo hạt. cũng giống như một người gieo hạt trong lúc trời sẫm tối, một nắm tay đưa lên thì ngàn vạn hạt được gieo xuống. Người đứng bên không thấy được hình dáng của những hạt giống ấy và chính người gieo cũng không sao biết được số lượng của những hạt kia. Chúng ta hằng ngày cứ an nhiên tạo nghiệp mà không hề hay biết. Vì thế mà bốn câu thơ trên, tác giả đã cho chúng ta thấy rõ tiến trình tạo tác của con người trên lý nhân quả. Tác giả nhấn mạnh hai từ "hành động" và "ý niệm". Vì sao như vậy? Từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng ta là những lữ khách quên mất chơn tâm, lang thang trên nẻo đường ba cõi, từng ý niệm say mê đắm chìm trong dục lạc, để rồi chấp thủ, đuổi bắt, bám víu. Đó chính là nỗi bất hạnh trầm kha muôn thuở của con người. Duy Thức nói:

" Động thân phát ngữ độc vi tối

Dẫn mãn năng chiêu nghiệp lực khiên".

Pháp Cú Kinh dạy, trong ba nghiệp thân, khẩu, ý thì ý thức chính là chủ nhân ông của nghiệp, bởi lẽ:

"Ý dẫn đầu các pháp

Ý làm chủ ý tạo

Nếu với ý ô nhiễm

Nói năng hay hành động

Khổ não bước theo sau

Như xe chân vật kéo”.

Ngược lại:

“Nếu với ý thanh tịnh

Nói lên hay hành động

An lạc bước theo sau

Như bóng không rời hình".

Và trong Kinh Di Giáo lúc Đức Phật sắp Niết Bàn, ngài có dạy rằng: "Trong năm căn, tâm là chủ, do đó các ông phải dứt tâm phân biệt, phóng túng, buông lung".

Sống trong cuộc đời vô thường này, thế giới mờ ảo hay rõ ràng đều có cái hay của nó. Thực tướng không phải ở cảnh, ở sắc, cũng chẳng phải ở nhãn căn, mà chính là ở nơi cái nhìn giác ngộ, từ đó biết sống như thế nào, làm gì, gieo gì hôm nay để chuyển hóa nhân quả, nghiệp báo của chính mình. Nếu xét cho kỹ thì trong thế giới này, chúng sanh nghiệp lực lành, dữ không đều, thân tướng và cảnh giới chúng sanh cũng tốt, xấu sai biệt. Nhưng điểm sinh khởi chẳng rời sát na tâm sinh diệt, chỗ hội quy cũng không rời sát na tâm sinh diệt. Vì vậy, muốn hàng phục và chuyển biến cái sát na tâm sinh diệt ấy thì chính là điều mà nhà thơ đã nói ở trên.

Thật vậy, khi Đức Phật đạt toàn giác, Ngài đã quán chiếu chúng sanh rồi xót thương: "Lạ thay, hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai, chỉ vì tham ái, vô minh, vọng tưởng che lấp nên không giác ngộ. Phàm chúng sanh hễ động chân cất bước thì toàn là tội lỗi". Chính vì lẽ đó, thi sĩ đã nhắc chúng ta rằng, mỗi hành động hay ý niệm khởi lên trong tâm thì xem như chúng ta đã gieo nhân, tạo nghiệp. Mà đã gây nhân rồi thì tất nhiên phải nhận quả như khổ thơ đầu tác giả đã nói, và quả ấy tốt hay xấu thì do ở nơi nhân duyên mình đã gây.Khổ thơ cho chúng ta thấy rằng nhà thơ có một lối nhìn nhân quả đồng thời rất sống động và thiện xảo. Nghĩa là các pháp dù lớn hay nhỏ khi chúng hiện hữu thì các nhân duyên cũng có mặt trong từng sát na, tác giả đã dùng từ "băng qua" để chỉ cái sát na ấy. Do đó, vượn còn biết mến trăng trong thì người sa vào đám bụi hồng làm chi?.

Thơ Mặc Giang thực sự là một kho tàng trí huệ đạo đức, nó bao hàm những bài học thực tiễn mang chân lý sâu xa cho chúng ta áp dụng vào cuộc sống với hạnh phúc an lạc chân thật từ những việc mình làm. Từ đó, ai ai cũng chớ thấy thiện nhỏ mà lơ, chớ thấy ác nhỏ mà tơ tưởng làm. Trong thơ ông, lý thuyết phải đi đôi với thực hành, tức lý sự viên dung, hay nói cách khác là nhờ thực hành mà chứng được lý lẽ là đúng, và nhờ lý lẽ soi sáng cho việc làm tốt đẹp tròn đầy.

Và chúng ta biết rằng, nhân quả nó chi phối qua nhiều kiếp sống, từ vô lượng kiếp quá khứ đến đời sống hiện tại và còn kéo dài mãi đến đời sống vị lai, cho nên còn nhiều vấn đề trong tầng lớp không gian sâu thẳm hơn thì các nhà khoa học và các triết gia chưa đủ khả năng khám phá. Chỉ có người lắng sâu trong thiền định như nhà thơ mới thấy được điều này. Tác giả đã nêu lên mối liên hệ nhân quả trong ba đời quá khứ, hiện tại, và vị lai:

"Có quá khứ thì phải có hiện tại

Có hiện tại thì phải có tương lai

Một là ba, ba là một nối dài

Móc thời gian ba thì treo bất tận."

Thực tế trong cuộc sống, một số người đã thắc mắc rằng: "tu có chuyển được nhân quả hay không?", thì như chúng ta biết, lý nhân quả được nhìn dưới ánh sáng của duyên khởi, tức là:

"Do cái này có nên cái kia có

Cái này không nên cái kia không

Cái này sanh nên cái kia sanh

Cái này diệt nên cái kia diệt"

Lý nhân quả ở đây không cố định là tác nhân nào thọ quả nấy, cũng phải là tác nhân mà không thọ quả, mà từ nhân đến quả có nhiều duyên. Vì vậy, ở đây, nhà thơ đã nêu ra "móc thời gian treo ba thì bất tận" chính là nhân quả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai liên hệ với duyên khởi pháp, hay còn gọi là "tam thế lưỡng trùng nhân quả". Vì sao tác giả lại nói "một là ba, ba là một nối dài?". Bởi lẽ với cách giải thích trên thì chúng ta hiểu rằng, đối với tầng thứ nhất: vô minh và hành thuộc nhân quá khứ; thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, thuộc về quả hiện tại. Còn ái, thủ, hữu thuộc về nhân hiện tại; sanh, lão tử thuộc về quả vị lai. Đối với tầng thứ hai thì ái, thủ, hữu thuộc về nhân quả quá khứ; sanh, lão tử thuộc về quả hiện tại; vô minh và hành thuộc nhân hiện tại và thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ thuộc về quả vị lai. Qua đó chúng ta thấy rằng, vạn pháp làm nhân, làm duyên cho nhau và tương quan phụ thuộc lẫn nhau, cho nên nhà thơ nói rằng "một là ba, ba là một nối dài. Móc thời gian ba thì treo bất tận". Thế mới biết, nhân duyên hòa hợp hư vọng hữu sanh, nhân duyên biệt ly hư vọng hữu diệt. Nghĩa là khi các nhân duyên nhóm họp thì giả dối có sanh ra, các nhân duyên chia rẽ thì giả dối gọi là chết. Như thế thì các pháp làm nhân làm duyên cho nhau nối dài không dứt từ đời này qua đời khác. Các pháp đó in tuồng là có chứ thực ra nó không có tự tướng, không có tự tướng tức là vô ngã. Nếu hiểu được như vậy thì chúng ta biết gieo nhân lành, trồng thiện căn,có như vậy thì bên ngoài chúng ta không bị hoàn cảnh kích thích, trong không bị phiền não lay động quay cuồng theo huyễn cảnh. Nhà thơ đã cho ta thấy ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai với sự vận hành của nó theo quy luật duyên sinh để cuối cùng chúng ta chuyển đổi nhân quả và thong dong bước đi, bước vào, bước ra trên dòng luân hồi sinh tử.

Lại nữa, nhà thơ hiểu rất rõ tâm lý của con người, ai ai cũng vui thích và tham đắm dục lạc của thế gian nên cứ gây nhân tạo nghiệp không tốt, mà không biết đó là nỗi đau của cuộc đời, bởi vạn pháp vốn vô thường, khổ, vô ngã. Cho nên, kẻ không minh đạt chánh pháp thì lặn hụp trong đó, còn người trí thì không đắm say. Bậc thánh biết mình nên làm những gì để hái gặt quả tốt, còn chúng sanh thì không biết nhân mình làm mà chỉ nhìn đến quả, đó chính là lối sống bỏ gốc cầu ngọn, thi sĩ viết:

"Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả

Nên Thánh, Phàm từ nơi đó mà ra

Đâu phải riêng chỉ một cõi Ta Bà

Mà tám hướng mười phương đều như thế".

Cuộc đời là một huyễn mộng trong đêm trường sinh tử thống thiết khổ đau. Khổ đau bắt nguồn từ nơi ý niệm, hành vi tạo tác của con người. Và chúng ta biết rằng, dù con người xuất hiện hay không thì nhân quả vẫn là định luật hiển nhiên như vậy. Nó có từ vô thỉ, vô chung. Do đó mà nhà thơ viết:

"Hoa Nhân Qủa phát sinh từ vô thỉ

Kết phan duyên hiện hữu đến vô chung

Chúng sanh ơi cẩn thận chớ lao lung

Đã tạo tác thì trước sau phải gánh".

Chúng ta biết rằng có loại nhân quả đồng thời mà từ nhân chúng ta gieo đến quả rất là nhanh, ví dụ như khi đói ăn thì no liền. Nhưng cũng có loại từ nhân đến quả nó có một khoảng thời gian gọi là hiện báo, tức nghiệp nhân trong đời này đưa đến quả báo trong đời này. Thứ hai, gọi là sinh báo, tức tạo nhân đời này nhưng đời sau mới nhận quả. Loại thứ ba gọi là hậu báo, nghĩa là tạo nhân đời này nhưng đến các đời sau nữa mới thọ báo. Vì lẽ đó mà nhà thơ nói rằng nhân quả phát sinh từ vô thỉ và kéo dài cho đến vô chung.

Những câu thơ của Mặc Giang giúp chúng ta "phản quan tự kỷ", luôn xem xét sự biến chuyển của tâm thức trong tất cả mọi hành động cử chỉ, ngăn chặn và đẩy lùi tất cả phiền não kiết lậu, gây tai hại cho mình và người khác. Mặt khác, nó giúp ta thấy được cội rễ của sinh tử luân hồi để liễu tri rằng thao tác của tam bất thiện nghiệp đều do tâm lý, tác ý làm chủ, làm người dẫn dắt. Vì thế, khi đã tạo nghiệp rồi thì "trước sau phải gánh". Từng lời thơ trong "hoa nhân quả" đặt ra vấn đề trách nhiệm cá nhân của con người, vì con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, là quyến thuộc dẫn dắt chúng ta đi vào mọi cảnh giới. Phàm nghiệp nào sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy. Chính vì vậy, chúng ta không nên tham, sân, si, tạo nghiệp nhân không tốt để rồi sau này phải nhận lấy khổ đau, luân hồi mãi trong đêm trường tăm tối của sinh tử.

Bài thơ kết thúc thật có hậu và thấm đẫm chan chứa tình người. Ai ai cũng biết bỏ ác làm lành, vun trồng cội phước.

"Hoa nhân quả biết rồi thì phải tránh

Tặng cho em mang nét đẹp thanh lương

Tặng cho anh mang sắc thắm lên đường

Tặng cho đời vun trồng chân thiện mỹ".

Bản chất của thơ Mặc Giang là an nhiên, tự tại, tinh thần trong sáng, thanh cao, giải thoát khỏi mọi ràng buộc, hệ lụy của thế gian. Tâm thong dong và thảnh thơi trên khắp mọi nẻo đường như nước chảy xuôi dòng không cố ý, mây ra khỏi núi vốn vô tâm. Lời thơ thâm trầm của một phen đáo bỉ ngạn rồi cũng mất hút như nhiên, còn lại giữa thế cuộc khúc tâm ca, triết lý bình dị sâu xa tự nó đi vào lòng người nhịp điệu nay mai không đổi, ý thơ trôi chảy vô ngã tính. Từ trong sâu thẳm tâm linh, qua bài thơ "hoa nhân quả", thi sĩ đã gửi gắm lẽ sống muôn đời của pháp bất sanh, bất diệt. Mai đây, lá vẫn cứ rụng, hoa vẫn cứ rơi, cuộc đơm bông kết trái sẽ tự giải bày với ta tất cả.

Dõi Bóng Trường Giang,

Đầu năm Giáp Ngọ 2014

Tâm Như

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/08/2021(Xem: 19660)
Tiếng chuông chùa vang lên để xoa dịu, vỗ về những tâm hồn lạc lõng, bơ vơ. Hồi chuông Thiên Mụ, mái chùa Vĩnh Nghiêm một thời chứa chan kỷ niệm. Đó là lời mở đầu trong băng nhạc Tiếng Chuông Chùa do Ca sĩ Thanh Thúy trình bày và ấn hành tại hải ngoại vào đầu thập niên 80. Thanh Thúy là ca sĩ hát nhạc vàng, đứng hàng đầu tại VN trước năm 1975. Cô là đệ tử của HT Nguyên Trí ở chùa Bát Nhã, California. Khi Thầy còn ở VN cuối thập niên 80 có đệ tử ở bên Mỹ đã gởi tặng Thầy băng nhạc Tiếng Chuông Chùa này. Hôm nay Thầy nói về chủ đề Tiếng Chuông Chùa, hay tiếng Chuông Đại Hồng Chung. Đại Hồng Chung là một cái chuông lớn được treo lên một cái giá gỗ đặt trong khuôn viên chùa hay trong Chánh điện. Hồng Chung là một pháp khí linh thiêng, là một biểu tượng đầy ý nghĩa của Phật giáo, nên chùa nào cũng phải có, lớn hay nhỏ tùy theo tầm cỡ của mỗi chùa. Hàng ngày Đại Hồng Chung được thỉnh lên vào buổi chiều tối, báo hiệu ngày
27/07/2021(Xem: 11994)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8410)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5475)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 18112)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3574)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 7095)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 19069)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13439)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4573)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]