Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Tâm Như Bất thối qua Viên Giác

31/01/201206:22(Xem: 15797)
02. Tâm Như Bất thối qua Viên Giác

Tâm Như Bất thối qua Viên Giác

Ân Học Sinh

Nếu hạnh phúc là đối tượng mà nhân loại mãi đi tìm, thì hẳn phương pháp tìm ra đáp số về bài toán hạnh phúc là mối quan tâm của nhân loại. Hạnh phúc ở đâu, nó là gì, những điều này được giải đáp thỏa đáng trong tinh thần Viên Giác. Viên Giác chỉ cho ta thấy rằng, tất cả là sự lưu xuất là phóng ảnh của tâm thức. Trở về với tâm là trở về với suối nguồn hạnh phúc dạt dào từ thuở ban sơ.

Có lẽ cũng cảm hứng từ điều này mà trong Tâm Như bất thối, nhà thơ Mặc Giang có đoạn:

Giữa muôn trùng biền biệt

Thật ra chẳng hai bờ

Lật bức ảnh mịt mờ

Chắp tay hoa mầu nhiệm

Nhìn cái huyễn, không huyễn

Ðã dứt sạch huyễn rồi

Thỏng thay mà buông lơi

Trụ tâm như bất thối

(Mặc Giang, Tâm Như bất thối)

Ðây là một thơ hay. Phải chăng là một kinh nghiệm về sự thể nhập thể tánh chất của Tâm Như xuyên qua quán chiếu các huyễn. Có lẽ câu hỏi cũng chính là câu trả lời, mà nội dung của nó không nằm trong ngôn từ mà ẩn náu đằng sau những gì mong manh nhất mà ngôn từ thể hiện.

Tuy nhiên, để dọn đường câu trả lời hay đáp số được thỏa đáng, điều đầu tiên, chúng ta cần hiểu rằng, thế giới thiên sai vạn biệt này được đan kết bởi các duyên điệp trùng trong sự tạo tác của biệt nghiệp và cọng nghiệp. Sự bất khả tư nghì của nghiệp thì không thể diễn bày ra mà chỉ cảm nhận bằng mọi tri giác và mọi giai tầng của tâm thức. Thật sự khi nhìn vào tự tánh của chúng, hay chính là những giả tạo hư ngụy của “muôn trùng biền biệt”, ta mới phát hiện ra cái gút mắc căn bản mà từ đó chúng thiên biến vạn hóa.

Tuy thiên biến vạn hóa mà “chẳng hai bờ”; hai bờ khiến ta liên tưởng ngay đến thế giới nhị nguyên được mất xấu tốt, sanh tử Niết-bàn. “Chẳng hai bờ”, do chúng xuất phát từ cái “một” miên viễn, là bản tâm, điều mà Viên Giác dạy: “Nhất thiết Như Lai viên giác diệu tâm bổn vô bồ-đề cập dự Niết-bàn; diệc vô thành Phật cập bất thành Phật, vô vọng luân hồi cập phi luân hồi”. Cái “Chẳng hai bờ” nói lên tự tánh vô ngã của các pháp, hay chính của “muôn trùng biền biệt”. Cho nên dù là thiên hình vạn trạng khác nhau, như hoa đốm lăng xăng, nhưng quán sát bằng trí huệ thì thấy chúng vốn vô tướng, là huyễn sinh huyễn diệt. Vậy, cái “chẳng hai này” không phải là cái “một” có hình tướng khác với hai hay nhiều, mà là cái “một” của sự thanh tịnh, bình đẳng biến khắp Viên giác diệu tâm. Cho nên khi nhận ra thật tánh của vạn pháp, tức là đã đưa tay lật lại một uế độ của thế giới huyễn hóa thành một Tịnh độ mầu nhiệm của Hoa Nghiêm.

“Lật bức ảnh”, một lối nói thật thơ! Cái bức ảnh vũ trụ này được lật thành môt cảnh giới hoàn toàn khác. Cái “lật” của chuyển đổi tâm mà không đơn thuần lật lui lật tới như lật trang sách. Cái lật ở đây là cả một quá trình tu tập và đột nhập vào “cái chẳng hai”, vào thẳng tâm tủy của những “muôn trùng biền biệt”. “Lật bức ảnh” là sự xuyên qua các huyễn tướng của “không hoa”, xuyên qua cái vô minh mịt mờ đã giăng từ vô thỉ để có được sự mầu nhiệm của thế giới đầy hoa.

Nhận ra cái “không hai” này, ta sẽ có ngay thái độ điềm tĩnh và dám “lật đổ” cả một thế giới mịt mờ mà lâu nay chúng ta vì nó mà đau khổ thất vọng… Hay nói đúng hơn, cái khổ sở của con người chỉ biến mất khi người đó đặt xuống tất cả những bám víu của vọng tâm, những ham muốn dẫn dắt con người lang thang vô định. Sự nhiệm mầu như như của Hoa chỉ có được khi tâm thức trở nên vắng lặng“giữa muôn trùng biền biệt”, giữa có không, được mất, cũng là khi mà :

Nhìn cái huyễn không huyễn

Đã dứt sạch huyễn rồi

Thỏng tay mà buông lơi

Trụ tâm như bất thối

Nhưng làm sao để dứt sạch cái huyễn, tác giả Mặc Giang không nêu ra, mà chỉ “nhìn” từ căn bản nhận ra cái “không hai” của vạn pháp. Cái nhìn đó chứa đựng cả môt sự liễu tri về cái huyễn và căn nguyên của nó. Chúng phát sanh từ “viên giác Diệu tâm”, hay chính là cách nói khác: “Nhất thế chúng sanh, chủng chủng huyễn hóa, giai sanh ư Như Lai Viên Giác diệu tâm. Do như không hoa, tùy không nhi hữu, huyễn hoa tuy diệt, không tánh bất động hoại” Những huyễn hóa được sanh từ mống dậy của vô minh trong biển tâm Viên giác tròn đầy như sự nhô lên của từng đợt sóng. Tướng của sóng vốn từ nước, sóng hết rồi thì trở lại thành nước. Cũng vậy, huyễn hóa sanh từ tâm, diệt rồi trở về tâm, tương tợ như hoa đốm xuất hiện trong không gian, chúng diệt rồi mà không gian thì bất động. Sự có ra của các huyễn không phải lỗi ở Viên Giác, cũng như sự có các hoa đốm không phải lỗi tại không gian, mà chính do con mắt bị nhặm đỏ. Mắt nhậm sinh hoa đốm, tâm bệnh sinh huyễn tướng. Các huyễn này mất đi khi bệnh được chữa lành. Trong Tín Tâm Minh, ngài Tăng Xán dạy: “nhãn nhược bất thụy, chư mộng tự trừ; tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như ” (Nếu mắt không ngủ thì không có chiêm bao, tâm không trú trước thì không sanh sự sai biệt về vạn pháp).

Vậy sự có ra các huyễn tướng đánh dấu sự sai lạc của tâm thức ô nhiễm. Nhưng bản thân các huyễn này không thật, như sự không thật của hoa đốm hay của giấc mộng; nên nó có hay không, thì hoàn toàn tùy thuộc vào tâm ta, là vấn đề của tâm, cho nên nói rằng: “như mộng trung nhân, mộng thời phi vô, cập chí ư tỉnh, liễu vô sở đắc”, hay chỉ cần nhận ra bản chất không thật của huyễn thì huyễn diệt: “tri huyễn tức ly… ly huyễn tức giác”, mà không cần làm gì hơn là để cái tâm thanh tịnh chiếu soi.

Bấy giờ chỉ cần “Thỏng tay mà buông lơi” mà thôi, đó là trạng thái tâm thức ly khai các huyễn, không còn mê muội; liễu tri các huyễn tướng vốn an trú trong thật tướng của nó; mà thật tướng xưa nay vốn đầy đủ, không cần tạo tác, bởi nó vốn là vi diệu của tâm. “Thỏng tay mà buông lơi”, gợi lên phong cách phóng khoáng của chư vị tổ sư đã vượt qua bên này bên kia vòng kiến chấp và đang thỏng tay vào chợ, thị hiện hóa độ chúng sanh, thiết lập vô trú xứ Niết-bàn, do đã “Trụ tâm Như bất thối”.

Đoạn thơ Tâm Như bất thối của Mặc Giang là cả một triết lý sâu sắc về nghĩa lý Viên giác. Để có thể nói lên biểu đạt được điều đó, đòi hỏi cả một sự nghiền ngẫm tư duy và thể hiện độ “chín” của tâm thức của tác giả Mặc Giang. Không cần phải làm gì đối với thế giới phù hoa mà chỉ cần quay lại khám phá, sửa đổi và khám phá cái tâm, quán sát những đặc tính đa thù của nó.

Ôi! Cái huyễn! sức tàn phá của nó vô cùng tàn bạo đối với tâm thức còn mịt mờ u tối; nhưng lại trở nên rất mong manh như hoa đốm, như sương sớm, như nắng chiều dưới cái nhìn đầy trí huệ. Bản chất vô tự tính của các huyễn gợi cho ta khả năng vươn tới sự nỗ lực tích cực để thấy đằng sau cái huyễn là những gì không phải huyễn. Ðó là sự nỗ lực của tâm thức Ðại thừa, nhân cách Ðại thừa: thỏng tay vào chợ, điều mà Tâm Như bất thốiđã dọn đường cho chúng ta.

_____________________________

Tâm như bất thối

Tháng 12 – 2007

Đời có chi là khổ

Ta cứ sống an lành

Như mây trắng trời xanh

Thong dong bay cùng khắp

Dù cội già gai góc

Dù hoa lá xinh tươi

Ta vẫn cứ mỉm cười

Giữa đồi cao gió hát

Mang nguồn tâm của ý

Gởi hương nội cỏ đồng

Cho hoa lá đơm bông

Đến bờ lau sỏi đá

Có, thì có tất cả

Không, vốn đã là không

Nhìn pháp giới rỗng không

Băng ngang dòng sinh diệt

Giữa muôn trùng biền biệt

Thật ra chẳng hai bờ

Lật bức ảnh mịt mờ

Chắp tay hoa mầu nhiệm

Nhìn cái huyễn, không huyễn

Đã dứt sạch huyễn rồi

Thỏng tay buông, thảnh thơi

Trụ tâm như bất thối. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2016(Xem: 12074)
Chiều xuống giữa ngàn cây, Sương lam hòa trong mây Cỏ dại lấp lối đi Lữ khách dừng chân nghỉ Lắng nghe tiếng nước chảy Lần theo suối đi mãi Hết đường – một hồ vắng Nước lặng loáng trăng vàng
04/03/2016(Xem: 13765)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
01/03/2016(Xem: 14067)
Thầy Tuệ Sỹ là một vị danh Tăng, một thạch trụ già lam, vị tu sĩ uyên bác mà cả hàng triệu người trên thế giới biết đến. Hồn thơ và sắc thái của Tuệ Sỹ vốn thanh tao và giải thoát, vốn lai láng và cao siêu—đã và đang làm nhiều người say mê, học hỏi và thả hồn mình trong nguồn suối từ miên viễn này.
24/02/2016(Xem: 14379)
Bình Định Quê Hương Tôi
01/02/2016(Xem: 22755)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 51 , tháng 2 năm 2016, • THƯ TÒA SOẠN, trang 2 • NGÀY XUÂN - LỄ PHẬT ĐẦU NĂM (Nguyên Siêu), trang 3 • HUYỀN NGHI, ÂM HƯỞNG, HOÀI CẢM (thơ Phù Du), trang 4 • Ý NIỆM VỀ MÙA XUÂN DI LẶC (Tuệ Như), trang 5 • TRÀ KHUYA & TRĂNG (thơ Mặc Phương Tử), trang 6 • ĐẦU NĂM NÓI CHUYỆN HÁI LỘC (Pháp Hỷ), trang 7 • ĐẦU XUÂN KÍNH NGUYỆN (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 • MÙA XUÂN HOA NGHIÊM (Nguyễn Thế Đăng), trang 9 • BẢN HOÀI CỦA TU SĨ (Ns. Thích Nữ Trí Hải), trang 11 • BIỂN VÀ THƠ (thơ Minh Lương), trang 12 • SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM (Thích Thái Hòa), trang 13
22/01/2016(Xem: 5480)
Trong lịch sử văn hóa TQ (Trung Quốc), phải công nhận là các học giả Hán xưa kia rất chịu khó viết lách và đã để lại nhiều tài liệu phong phú cho hậu thế. Tuy nhiên, các chủ đề được ghi nhận qua chữ Hán không có nghĩ là chúng có xuất xứ từ TQ, mà đa số từ quá trình giao lưu văn hóa ngôn ngữ theo dòng thời gian - càng lâu bao nhiêu thì lại càng khó truy nguyên và xác định nguồn bấy nhiêu.
09/01/2016(Xem: 14965)
Thiên nhân hỏi: - Thanh kiếm nào sắc bén nhất? Chất độc nào tàn hại nhất? Ngọn lửa nào dữ dội nhất? Bóng đêm nào đen tối nhất? - Đức Phật trả lời: Lời nói trong lúc giận dữ là thanh kiếm sắc bén nhất, dục vọng là chất độc tàn hại nhất, đam mê là ngọn lửa dữ dội nhất, vô minh là bóng đêm đen tối nhất.
27/12/2015(Xem: 11919)
Có chàng lãng tử lưu lạc giang hồ từ thuở thiếu thời, bỗng một hôm nghe hung tin người cha già rời bỏ trần gian, lòng bồi hồi nhớ đến lời dặn dò năm xưa của cha, lời rằng, “Dù vui, buồn giữ mãi cái tâm trong.” Chàng lãng tử đó là nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du, một trong mười nhà thơ -- gồm Bạch Xuân Phẻ, Hàn Long Ẩn, Huyền, Nguyên Lương, Nguyễn Hoàng Lãng Du, Nguyễn Phúc Sông Hương, Nguyễn Thanh Huy, Phan Thanh Cương, Trần Kiêm Đoàn, và Tuệ Lạc -- có mặt trong tuyển tập thơ Tâm Trong vừa mới được nhà sách lớn nhất thế giới Amazon phát hành vào trung tuần tháng 12 năm 2015.
22/12/2015(Xem: 3822)
Năm cũ của nhân loại được khép lại với nhiều xáo trộn, bất ổn trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội… của mỗi quốc gia, và cộng đồng quốc tế, của mỗi dân tộc và từng cá thể. Nơi nầy nơi kia, chiến tranh, khủng bố, độc tài, kỳ thị, áp bức, bất công… vẫn tiếp tục gieo rắc sự chết chóc, tù đày, bất an và sợ hãi. Khổ đau của con người có khi dâng cao cùng tận, đến độ có thể đẩy xô hàng trăm nghìn, cho đến hàng triệu người phải gạt lệ rời bỏ quê hương, hoặc chối bỏ quyền làm công dân bình thường trên chính đất nước của mình.
18/12/2015(Xem: 7269)
Mỗi chuyến đi đều có mỗi nhân duyên khác biệt. Chuyến đi Ai Lao lần nầy của ba huynh đệ: tôi, thầy Hạnh Giới và chú Hạnh Tuệ cũng có nhân duyên thật là đặc biệt. Thông thường chương trình của Thượng Tọa Phương Trượng được sắp đặt trước một năm, năm nay chúng tôi sang Úc với Thượng Toạ thời gian ba tháng, từ đầu tháng 10 đến đầu tháng 1 năm 2004. Chuyến đi nầy sẽ ghé Bồ đề Đạo tràng, vì thương quý thầy cô học tăng Việt nam, sinh viên trường Đại học Delhi, Thượng Toạ sang thăm Ấn độ mỗi năm một lần, để quý vị có cơ duyên được gần gũi, được nghe những lời huấn từ của Thượng Toạ và được tu tập bù lại phần lớn thời gian sống đời lưu học sinh, không chùa, phải ở ký túc xá sinh viên hoặc ở nhà trọ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]