Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm nhận nguồn sông trăng

27/01/201322:55(Xem: 3162)
Cảm nhận nguồn sông trăng

moon_1             
 CẢM NHẬN NGUỒN SÔNG TRĂNG

                                         * Giác Lượng Tuệ Đàm Tử

 

 

       Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả.

     “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.

 

Ý đời huyền diệu vô vi

Tờ hoa phất phới gió về sông trăng.

 

Hoăc:                    Vần thơ thanh thản ánhTrăng Thiền.

                                                     (Trong bài Trăng Thiền, ở tập Mây Hương, trang 17)

 

      “Từ Giòng Sông Trăng” là đề tài một bài thơ mà tôi nhớ không lầm đã in trong tập “Mây Hương” do Nguồn Sống xuất bản vào năm 1987, bìa do Họa sĩ Trương thị Thịnh trình bày, Tuệ Đàm Tử đề tựa. Qua 54 bài thơ trong toàn tập “Mây Hương” đã có ba đề tài “Trăng” như: Trăng Thiền (trang 17) Từ Giòng Sông Trăng (37) Giòng Trăng Vô Lượng (41). Và phảng phất trong nhiều bài thơ có đề cập đến “Trăng”; nhờ trăng mà tác giả đã diễn tả  ý thơ một cách sống động diệu kỳ.

 

Trăng nghiêng nửa mái thơ cài.

Đường về Tịnh độ, hỏi người bao xa ?

                                                              (trong bài Hoa Mưa ở tập Mây Hương, trang 18)

Hoặc :

 

Bàng bạc tơ trăng sương mai lóng lánh.

Hương Đà La thơm gió bến Chân Như.

                                                    (Mầu Nguyên Thuỷ -  Mây Hương, trang 70)

Bài,

Từ giòng sông trăng đó

Hoa ngủ quên kiếp sầu

Từ giòng sông trăng đó

                                                    Đá trầm lời biển dâu

 

Từ giòng sông trăng đó

Thơ ngát  ý nguyện cầu.

 

 

 

 

- 2 -

 

         Ai có ngờ, Nữ sĩ Tuệ Nga đã cảm nhận được lẽ vô thường của cuộc đời như bóng trăng trên giòng tịnh thuỷ. Ba vạn sáu ngàn ngày cũng trôi đi không hề dừng lại cho đời người giữa kiếp phù du. Có hiểu đạo thâm sâu, Tuệ Nga mới dệt thành bức tranh vô thường huyễn ảo  như giấc mộng trầm kha, mấy ai thức tỉnh.

 

Đêm mơ dưới ánh trăng thâu

Quẩy kinh ai đổ trên cầu nhân sinh

Sáng ra thức giấc hỏi mình

Là hư hay ảo, cội hình phù du.

 

Từ giòng sông trăng đó

Đá ướm hỏi lòng thu

Vàng rơi bao kiếp nữa

Cây đứng lặng trầm tư

Sắc không vô hình tướng

Sao hỏi có vàng thu ?

 

Từ giòng trăng vô lượng

Kinh hoa nở muôn mùa

Từ giòng kinh thi hóa

Tiếng đời êm tiếng thơ

 

Đêm qua chợp giấc lại mơ

Quẩy kinh ai đổ bên bờ suối hoa

Tiếng chim hót giữa rừng xa

Âm thanh lảnh lót ngân hà sông trăng.

                                              ( Mây Hương , trang 37)

 

       Từ ý thức đạo mầu, Phật Pháp thâm sâu mà giấc mơ lành hiện đến .

Té ra: Bờ mê bến giác không xa. Ta Bà Tịnh độ chỉ qua chiếc cầu.

Chiếc cầu nhân sinh mà có người đưa đường dẫn lối thì giấc mơ lành sẽ biến thành sự thật.  Do vậy mà Nữ sĩ Tuệ Nga đã ngưỡng mộ “giòng sông trăng” một cách yêu quí tuyệt vời. Và cũng từ “giòng sông trăng đó” mà nhà thơ của chúng ta đã dùng làm đề tài cho tập thơ thứ mười, xuất bản vào cuối  mùa hè năm 2005.

 

 

Cũng  ;                                        Từ giòng sông trăng đó

Thơ ngát ý nguyện cầu.

 

 

          Có một điều lạ nơi Nữ sĩ Tuệ Nga  như đã nhập tâm về chữ  “Trăng”  vào kho tàng tư tưởng, vì nó bàng bạc trong 10 tập thơ đã xuất bản, thỉnh thoảng đều có chữ “Trăng” trong những bài thơ ưng ý nhất. Riêng trong tập “Từ giòng Sông Trăng”

 

 

- 3 -

 

nầy, có trên 200 bài thơ đủ thể loại mà đã có đến 21 bài mang đề tài  về  “Trăng”   Và “Từ Giòng Sông Trăng Đó” đã chiếu ánh trăng vào trong 82 bài thơ bàng bạc có nhiều chữ “Trăng” mà chúng ta không ngờ,  tác phẩm nầy đã tràn ngập Ánh Trăng Vàng  trải dài trong toàn tập trên 223 chữ “Trăng” êm mát dịu dàng, len vào từng dòng thơ nhịp nhàng âm điệu, thanh thản trôi xuôi nơi từng bài, từng trang trong toàn thi phẩm, chúng ta không thể không lưu ý  như:

 

Lòng yêu quê hương như trăng tỏ đêm Rằm.

 

Hoặc:

Hồn Trưng, Triệu, Trăng muôn đời sáng tỏ.

                             (Yêu mãi nữ quân nhân, trang 288)

 

Hay như:

Ánh trăng Rằm trăng lung linh sáng lạn

Ngợp trong tôi vùng Ánh Sáng Từ Bi

                       (Hạt bụi trên vách đá, trang 293)

 

        23 chữ “Trăng” nằm trong một bài thơ mà độc giả chúng ta không thể tưởng tượng được một cách tài tình. Nữ sĩ đã dựng lên một bức tranh, thể hiện được chữ tình, chữ nghĩa, chữ yêu quê hương thắm thiết nồng nàn. Yêu Đạo, yêu Đời, yêu người đồng chủng, yêu văn hóa ngàn năm lưu truyền hậu thế. Bài thơ đã nói lên tinh thần Việt tộc, đã vẽ lên cảnh trạng sầu tuôn, ngút ngàn tức tưởi, kể từ giặc ngoại xâm lăng, cho chí đến giống nòi chia rẽ, chấp tranh, lấn giành chủ thuyết. Nhiều kẻ bán đứng lương tâm theo gót dày xâm lược, đã khiến cho lòng kẻ sĩ luống những ngẩn ngơ, Nữ sĩ Tuệ Nga đã cảm thông để thay lời cho bao lớp người thao thức,  mà thốt ra những lời thơ chí thiết, chí tình:

 

Bài :     Quê Hương Một Giòng Trăng

……………………………

……………………….

Một giòng trăng bạc chơi vơi

Trăng soi, soi hết ngậm ngùi thế nhân !

Khối sầu tôi gởi sông Vân

Nguyện cầu, trăng sáng mùa Xuân Thanh Bình

 

Mẹ già, chiều, sớm Kệ, Kinh

Dịu dàng em gái đẹp tình trăng, thơ

Trăng ơi ! Lòng vẫn mong chờ

Vầng trăng sáng rỡ đôi bờ quê hương.

……………………………………………..

 

 

 

 

- 4 -

 

 

Lại nghe huyền thoại … Trăng Hiền

Quê hương ta đẹp ba miền trăng mơ

Cho lòng ai luống ngẩn ngơ

Dòng trăng diễm tuyệt, nguồn thơ an bình

Ai nghe Cổ Tích quê mình

Hội Mùa Trăng, đẹp Miếu, Đình làng xưa

Quê Hương Một Giòng TrăngThơ…

 

 

(xin đọc hết bài thơ  bảy đoạn nơi trang 45 và 46 mới thấy rõ,

 nghe sâu vào tâm não của người lữ thứ tha phương, trên đường tỵ nạn !)

 

Phải chăng Nữ sĩ Tuệ Nga đã:

 

“Mượn” Trăng làm bạn với Thơ

Hương quan gối mộng giấc mơ Liên đài.

                               (Từ Trăng làm bạn với thơ, trang20)

 

Người xa quê ắt phải muôn vàn nhớ nước, lòng canh cánh bên lòng những khóm trúc hàng tre,mà nhà thơ phải :

 

Ngẩn ngơ sóng nước đôi bờ

Em hong áo lụa nghe bơ vơ sầu !

 

Lại còn cảm nhận được những khúc âm vang:

 

Lâm râm tiếng Mẹ niệm câu Di Đà.

Mùa xưa trăng sáng hiên nhà

Hương cau lãng đãng, bút hoa gieo vần.

                             (Nụ hồng có nở đầu Xuân, trang 143)

 

        Đọc, tôi đã đọc mải mê “Những giòng Sông Trăng” hết bài nầy đến bài nọ, hết trang nầy tới trang khác, càng đọc lại càng thấy ra những âm hưỏng mới lạ, từ cách gieo vần hay những dòng thơ điệp tự, mà  thấy như có một sắc thái chuyên biệt về Thơ Trăng, với nhạc điệu nhẹ nhàng thanh thoát nơi bài Thơ: Vầng Trăng Huyền Diệu, nơi trang 303, xét thấy hết sức là độc đáo.

Nơi đây tôi tạm khép lại bài viết, với những dòng cảm nhận nguồn thơ, vì biết rằng: Dẫu sao nói cũng không cùng, mong Nữ sĩ hiểu cho với tâm hồn đồng điệu.

 

San Jose, trọng thu năm Ất dậu (2005)

Giác Lượng Tuệ Đàm Tử

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3211)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1445)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 775)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 744)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 951)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1348)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 942)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 9100)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 744)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1627)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]