Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

28/06/201020:52(Xem: 32646)
Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

Đây là những câu đối của Hòa thượng bổn sư chúng tôi, HT. Thích Thiện Siêu, làm lúc sinh tiền để cho các khuôn hội hoặc các chùa khi những nơi nầy đến xin. Câu nào có nguồn gốc rõ ràng thì chúng tôi ghi chú phía dưới, nếu chưa rõ lắm thì chúng tôi để nguyên.

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

    Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế nơi cố đại lão HT Thích Thiện Siêu trụ trì

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

    Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế nơi cố đại lão HT Thích Thiện Siêu trụ trì

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

    Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế nơi cố đại lão HT Thích Thiện Siêu trụ trì

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

    Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế nơi cố đại lão HT Thích Thiện Siêu trụ trì

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

    Cổng tam quan Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế

    Chánh điện Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

    Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế

    Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu



    01. Nhập môn nghi xả dung thường tánh;

          Đáo tự ưng sinh hoan hỷ tâm.

           入 門 宜 捨 庸 常 性
           到 寺 應 生 歡 喜 心

    Tạm dịch:
     
              Vào chùa hãy sinh tâm hoan hỷ;
              Đến chùa nên bỏ tánh tầm thường.

    02a.Kim địa trúc Tòng lâm, cô nguyệt quang hàm không tức sắc;
            Sơn đầu hưng bảo sát, quần loan thúy tỏa cổ do kim.
     
             金 地 築 叢 林 孤 月 光 含 空 即 色
             山 頭 興 寶 剎 群 巒 翠 鎖 古 猶 今

    Tạm dịch:
     
                Đất báu xây Tòng lâm, trăng rọi ánh vàng không tức sắc;
                Non cao mở chùa Phật, núi phơi màu biếc, cổ như kim.
                                               (Tặng Tòng lâm Kim Sơn ở đồi Kim Sơn, làng Lựu Bảo, Huế - 1968)

    02a. Kim tướng phóng hào quang biến chiếu thập phương thành tịnh độ,
            Sơn sắc hàm tuế nguyệt viên dung tam tế tức thiền tâm.
               

               金 相 放 毫 光 遍 照 十 方 成 淨 土
               山 色 含 歲 月 圓 融 三 際 即 禪 心

    Tạm dịch:

               Thân vàng phóng hào quang biến khắp mười phương thành cõi tịnh,
               Màu núi bao hàm năm tháng tròn đầy ba cõi tức tâm thiền.

    03. Hồ bạn khởi thiền quan, giáo diễn chơn thừa, nhất tánh viên minh hoàn bản Tế.
          Sơn đầu khai thắng hội, thính lai thuyết pháp, thâm tâm tín nhạo ngộ tiền căn.
     
             湖 畔 起 禪 關 教 演 真 乘 一 性 圓 明 還 本 際  
             山 頭 開 勝 會 聽 來 說 法 深 心 信 樂 悟 前 根

    Tạm dịch:
     
            Bên hồ dựng nếp chùa, diễn dạy chơn thừa, một tánh viên minh về gốc cội;
            Đầu núi khai hội pháp, nghe truyền chánh pháp, toàn tâm hỷ tín ngộ căn xưa.
               (Tặng chùa Hồ Sơn do tổ Tế Căn khai sáng tại Tuy Hòa, kiến thiết lại năm 1984)

    04. Hàm long tái ngọ, đàm kinh phò luật xuất chân thuyên, ứng vật khúc trần, huề đăng thật địa;
          Báo Quốc trùng quang, bát hỏa ma chuyên truyền tổ đạo, đương cơ trực chỉ, bất lạc kỳ đồ.

          含 龍 再 午 談 經 扶 律 出 真 詮 應 物 曲 陳 雟 燈 實 地
          報 國 重 光 撥 火 磨 磚 傳 祖 道 當 機 直 指 不 落 岐 途

    Tạm dịch:
         
           Núi Hàm Long trở lại giữa trưa, giảng kinh phò Luật, nêu rõ lý mầu, ứng theo hoàn cảnh mà trình bày quanh co nhằm dìu dắt bước lên đất thật;
           Chùa Báo Quốc trở lại rạng quang, bươi lửa mài gạch để truyền Tổ đạo, ngay vào căn duyên chỉ thẳng, tránh rơi lạc đường chia.
                                                                         (Câu đối bàn thờ Tổ chùa Báo Quốc sau khi kiến thiết lại năm 1969 )

    05. Khiêm nhẫn hữu dư, phát ý viên thành Tam tụ giới;
          Trí bi vô ngại, chung thân bất thối Tứ hoằng tâm.

          謙 忍 有 餘 發 意 圓 成 三 聚 戒
          智 悲 無 礙 終 身 不 退 四 弘 心

    Tạm dịch:

           Khiêm nhẫn có dư, một nguyện tròn thành Tam tụ giới;
           Trí bi không ngại, trọn đời chẳng thối Bốn hoằng tâm.
                      (Câu đối ở tháp Hòa thượng Thích Thanh Trí chùa Báo Quốc-Huế)

    06. Chỉ đồ kiến tánh, ngôn hạ tri quy, thùy thị can đầu tấn bộ;
          Bát thảo tham huyền, thanh tiền ngộ chỉ thỉ năng tâm nội thừa đương.

          指 圖 見 性 言 下 知 歸 誰 是 竿 頭 進 步
          撥 草 參 玄 聲 前 悟 旨 始 能 心 內 承 當

    Tạm dịch:

          Chỉ đồ hình nhằm thấy tánh thật, ngay lời biết chỗ quay về, đâu là người đầu sào tiến bước?
          Phát cỏ dại để tìm cơ huyền, ứng tiếng thông nơi ý chỉ, mới chính kẻ tự nội thừa đương.
                            (Câu đối ở tháp chùa Báo Quốc - Huế và bàn thờ Tổ ở Long Sơn - Nha Trang)

    07. Quảng đại hạnh, phát thâm tâm, bát thát mê vân, bất quyện hối nhân bồi Phật chủng;
          Cứu chơn không, nghiên diệu chỉ, xung khai tuệ nhật, phùng trường trác tích chấn tông phong.

          廣 大 行 發 深 心 撥 拓 迷 雲 不 倦 誨 人 培 佛 種
          究 真 空 研 妙 旨 沖 開 慧 日 逢 場 卓 錫 振 宗 風

    Tạm dịch:

          Quảng khai đại hạnh, phấn phát tâm sâu, vén bớt mây mê, mệt mỏi chẳng nề dạy người vun Phật chủng;
          Thẩm cứu chân không, thâm nghiên ý diệu, mở ra vầng tuệ, ngay nơi duyên thuận, dựng gậy chấn Tông phong.
                                           (Tặng tháp Hòa thượng Thích Trí Thủ chùa Báo quốc-Huế)

    08. Ngự lãnh thanh phong, phất diện vấn thùy năng tác Phật;
          Bình tiền khô mộc, đãi nhơn tri ngộ vị khai hoa.

          御 嶺 清 風 拂 面 問 誰 能 作 佛
          屏 前 枯 木 待 人 知 遇 為 開 花

    Tạm dịch:
         
          Đỉnh Ngự gió lành phe phất tìm ai hay làm Phật?
          Non Bình cây héo mong chờ người hiểu để nở hoa.
                             (Tặng Khuôn hội Phật giáo Ngự Bình - Huế)

    09. Tức tục nhi chơn, xứ xứ tận thành Hoa tạng giới;
          Bội trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn.

          即 俗 而 真 處 處 盡成 花 藏 界
          背 塵 合 覺 心 心 圓 攝 大 乘 門

          Tức tục mà chơn, nơi nơi đều thành Hoa tạng giới;
          Trái trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn
                          (Tặng tháp HT. Mật Nguyện, chùa Trúc Lâm - Huế)

    10. Quảng khai phương tiện môn, thiện xiển tần già phổ kiến pháp tràng vu xứ xứ;
          Hương biến trang nghiêm độ, tư bồi đạo thọ cao tiêu đức bổn ư trùng trùng.

           廣 開 方 便 門 善 闡 頻 伽 普 建 法 場 于 處 處
           香 遍 莊 嚴 土 滋 陪 道 樹 高 標 德 本 於 重 重

    Tạm dịch:

            Mở rộng cửa phương tiện, khéo xiển tần già, dựng xây pháp tràng khắp chốn chốn;
            Huân ướp đức trang nghiêm, bồi đắp đạo cả, tỏ gốc đức hạnh ở nơi nơi.
                           (Tặng chùa Quảng Hương của Hòa thượng Thích Trí Thủ năm 1970)

    11. Bội giác hiệp trần, mộng lý na tri thân thị huyễn;
          Quy nguyên đắc chỉ, định trung thường chiếu Phật do tâm.

     背 覺 合 塵 夢 裡 那 知 身 是 幻
     歸 源 得 旨 定 中 常 照 佛 猶 心

           Trái giác hiệp trần, trong mộng đâu hay thân là huyễn;
           Về nguồn đặng gốc, lúc định thường thấy Phật tại tâm.
                                                (Tặng chùa Hương Sơn –Huế)

    12. Bảo ấn tông phong “Chỉ vật truyền tâm” nhất cú thoại đầu chơn liễu ngộ;
          Tịnh quang cao đức, tùy duyên hóa đạo “Huyền nhai tán thủ” tận quan thông.
         
          寶 印 宗 風 只 物 傳 心 一 句 話 頭 真 了 悟
          淨 光 高 德 隨 緣 化 道 懸  崖 散 手 盡 觀 通
         
          Tông phong bảo ấn, “Chỉ vật để truyền tâm”, một câu thoại đầu tâm tõ ngộ;
          Cao đức tịnh quang, tùy duyên hóa đạo, buông tay nơi vực thẳm trí dung thông.
                                                                                                        (Tặng chùa Bảo Tịnh - Phú Yên)

    13. Tục đoạn khởi thần chung thức đắc tiêm trần bất trước nhãn;
          Vinh khô thành mộng huyễn giác lai thế giới tổng duy tâm.

          續 斷 起 晨 鐘 識 得 殲 塵 不 著 眼
          榮 枯 成 夢 幻 覺 來 世 界 總 唯 心

          Tiếp, dứt tiếng chuông mai, rõ được bụi trần không dính mắt;
          Tươi, khô giấc mộng huyễn, hay rằng thế giới chỉ là tâm.
                                                             (Tặng chùa Tây Thiên - Huế)

    14. Nhơn y pháp, pháp y nhơn, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp;
          Phật tức tâm, tâm tức Phật, cổ kim bất nhị hợp chơn tông.

          人 依 法 法 依 人 動 靜 隨 緣 消 舊 業
          佛 即 心 心 即 佛 古 今 不 二 合 真 宗

    Tạm dịch:

          Người nương pháp, pháp nương người, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
          Phật tức tâm, tâm tức Phật, xưa nay chẳng khác hợp chơn tông.
                                                                        (Tặng cho một số chùa)

    15. Hậu thương hải, tiền bích giang, thủy nguyệt ba quang tương ánh nguyệt,
          Triêu kim kinh, mộ ngọc kệ, cổ chung thanh hưởng cộng diêu hưng.

          後 滄 海 前 碧 江 水 月 波 光 相 映 月
          朝 金 經 募 玉 偈 鼓 鐘 聲 響 共 遙 興

    Tạm dịch:

          Sau biển rộng, trước sông xanh, trăng nước chập chờn cơn sóng vỗ;
          Sáng kinh vàng, chiều kệ ngọc, trống chuông vang vọng tiếng xa gần.

    16. Hoa bảo phiệt phiến từ hàng, bạt tế ái hà danh lợi khách;
          Diễn kim kinh, tuyên diệu kệ, hoán hồi khổ hải mộng mê nhơn.

          找 寶 筏 泛 慈 航 拔 濟 愛 河 名 利 客
          演 金 經 宣 妙 偈 喚 迴 苦 海 夢 迷 人

    Tạm dịch:

          Thả bè báu, dong thuyền từ, vớt khách lợi danh trên biển ái;
          Diễn kinh vàng, tuyên kệ diệu, gọi người mơ mộng giữa sông mê.
                                        (Tặng Khuông hội Phật giáo An Dương - Huế)

    17. Phạm vũ biến trang nghiêm, nhật phóng trùng tân cảnh sắc;
          Liên đài thường xán lạn, vân khai hiển hiện tường quang.

          梵 宇 遍 莊 嚴 日 放 重 新 境 色
          蓮 臺 常 燦 爛 雲 開 顯 現 祥 光

    Tạm dịch:

          Chùa Phật trang nghiêm, ảnh nhật lung linh như cảnh sắc;
          Đài sen vắng lặng, vầng mây hiển hiện ánh tường quang.

    18. Kiều thọ lăng không thất bảo trang nghiêm quang Phật sát;
          Tòng lâm túng tú, tứ sơn loan bích ánh thiền quan.

          橋 樹 陵 空 七 寶 莊 嚴 光 佛 剎 
          叢 林 聳 秀 四 山 巒 碧 映 禪 關

    Tạm dịch:

          Cây vút tầng không, bảy báu trang nghiêm cõi Phật;
          Rừng tùng xinh tốt, bốn bề non biếc cửa Thiền.

    19. Thiên bách ức kim thân, giáo pháp tuyên dương, nhiếp chúng sanh vu giác địa;
          Tam thập nhị bảo tướng, từ quang biến chiếu, cứu vạn loại xuất mê đồ.

          千 百 億 金 身 教 法 宣 揚 攝 眾 生 于 覺 地
          三 十 二 寶 相 慈 光 遍 照 救 萬 類 出 迷 途

    Tạm dịch:

          Trăm ngàn ức kim thân, Chánh pháp tuyên dương, nhiếp hóa chúng sanh về nẻo giác ;
          Ba mươi hai bảo tướng, ánh từ chiếu khắp, dìu dắt muôn loài thoát đường mê.
                                             (Ba cặp đối trên - 17,18,19 - tặng chùa Bát Nhã - Phú Yên)

    20. Cảnh trị u thâm, dã thảo nhàn hoa vong tuế nguyệt;
          Sơn cư khoán hoạt thần chung mộ cổ liễu sắc không.

          境 值 幽 深 野 草 閑 花 亡 歲 月
          山 居 曠 闊 晨 鐘 募 鼓 了 色 空

    Tạm dịch:

          Gặp cảnh thâm u, cỏ nội hoa đồng quên năm tháng;
          Ở non phóng khoáng chuông hôm mõ sớm tỏ sắc không.

    21. Tuệ nhật cao huyền, phổ chiếu chúng sanh vu giác đạo;
          Từ phong phổ phiến, tề tư vạn loại xuất mê tân.

          慧 日 高 懸 普 照 眾 生 于 覺 道
          慈 風 普 扇 齊 資 萬 類 出 迷 津

    Tạm dịch:

          Tuệ nhật treo cao, chiếu khắp quần sanh về đường giác;
          Gió từ phơ phất, mát cùng vạn loại khỏi bến mê.

    22. Tận xả Tham, Sân, Si, đương thử độ nhi vi Tịnh độ;
          Viên tu Giới, Định, Tuệ, tức phàm tâm hóa tác Thánh tâm.

          盡 捨 貪 瞋 癡 當 此 土 而 為 淨 土
          圓 修 戒 定 慧 即 凡 心 化 作 聖 心

    Tạm dịch:

          Bỏ hết Tham, Sân, Si, chính tại đây là Tịnh độ;
          Tu tròn Giới, Định, Tuệ, ngay phàm tâm chính Thánh tâm.
                                (Tặng cho chùa Diên Bình - Quảng Trị)

    23. Khánh trị u thâm, mộ cổ thần chung vong lụy kiếp;
          Sơn cư khoán hoạt, nhàn hoa dã thảo liễu tam sanh.

          慶 值 幽 深 募 鼓 晨 鐘 亡 累 劫
          山 居 曠 闊 閑 花 野 草 了 三 生

    Tạm dịch:
          
           Gặp cảnh thâm u mõ sớm chuông chiều sạch kiếp khổ,
           Ở non phóng khoáng vui cùng hoa cỏ ngộ ba sanh.
                                            (Tặng chùa Khánh Sơn - Huế)

    24. Bái thủ chú đàn hương, tam thiên giới kiết tường vân, phụng hiến Như Lai liên tọa thượng;
          Tín tâm trì Phật hiệu, bách bát thanh thành chánh niệm, kỳ sanh Tịnh độ bảo liên trung.

          拜 手 炷 壇 香 三 千 界 結 祥 雲 奉 獻 如 來 蓮 坐 上
          信 心 持 佛 號 百 八 聲 成 正 念 祈 生 淨 土 寶 蓮 中

    Tạm dịch:

          Tay sạch đốt hương đàn, thế giới ba ngàn kết mây lành, dâng hiến Như Lai trên bảo tọa;
          Tâm thành trì hiệu Phật, một trăm lẻ tám thành niệm chánh, cầu sanh Tịnh độ giữa hoa sen.

    25. Tiền lục thủy, hậu thanh sơn, phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu;
          Mộ kim kinh, triêu ngọc kệ, trần tâm địch tận chánh niệm phân minh.

          前 錄 水 後 青 山 梵 宇 輝 煌 佛 光 遍 照
          募 金 經 朝 玉 偈 塵 心 滌 盡 正 念 分 明

    Tạm dịch:

          Trước nước biếc, sau non xanh, Phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu;
          Chiều kinh vàng, sáng kệ ngọc, lòng trần gột sạch, chánh niệm phân minh.
                                                                            (Tặng chùa Hải Ấn - Nha Trang)

    26. Phật bất ly tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp;
          Chí tồn đại đạo, khứ lai vô ngại ngộ thiền cơ.

          佛 不 離 心 動 靜 隨 緣 消 舊 業
          志 存 大 道 去 來 無 礙 悟 禪 機

    Tạm dịch:

          Phật chẳng lìa tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
          Chí nơi đạo cả, đến đi vô ngại ngộ cơ thiền.

    27. Trí huệ tâm khai, lũy kiếp hôn mê tùng tiệt đoạn;
          Từ bi niệm khởi, đa sanh nghiệp chướng tự tiêu vong.

          智 慧 心 開 累 劫 昏 迷 從 截 斷
          慈 悲 念 起 多 生 業 障 自 標 亡

    Tạm dịch:

          Tâm trí huệ mở bày, lũy kiếp hôn mê liền dứt sạch;
          Niệm từ bi dấy khởi, nhiều đời nghiệp chướng tự tiêu vong.

    28. Chấp ngã chấp nhơn, kiến sắc văn thanh, thành quá hoạn;
          Tu bi tu trí, cử tâm động niệm, nhậm dung thông ?

          執 我 執 人 見 色 聞 聲 成 過 患
          修 悲 修 智 舉 心 動 念 任 容 通

    Tạm dịch:

          Chấp ngã chấp nhơn, thấy sắc nghe thanh đều tội lỗi?
          Tu bi tu trí, khởi tâm động niệm thảy dung thông.
                             (Tặng Khuông hội Phật giáo An Bằng - Huế)

    29. Ly tứ cú, tuyệt bách phi, tự thử vong ngôn, chân hữu đạo;
          Tồn  lục căn, tịnh tam nghiệp, chỉ ư tức niệm chứng vô sanh.

          離 四 句 絕 百 非 自 此 忘 言 真 有 道
          旋 六 根 淨 三 業 只 於 息 念 證 無 生

    Tạm dịch:

          Dứt trăm quấy, lìa bốn câu, tự chỗ vong ngôn mới thật đạo;
          Xoay sáu căn, sạch ba nghiệp, chính nơi dứt niệm ấy vô sanh.

    30. Tùy kỳ thiện nguyện, tiếp độ vi sư, duyệt chúng tâm ư đại đạo;
          Thí vô duyên từ, tác bất thỉnh hữu, phá nghi võng ư u đồ.

          隨 其 善 願 接 度 為 師 悅 眾 心 於 大 道
          施 無 緣 慈 作 不 請 友 破 疑 網 於 幽 途

    Tạm dịch:

          Theo thiện nguyện nó, tiếp độ cho làm thầy, tâm chúng được vui trong đạo lớn;
          Thí vô duyên từ, làm người bạn không thỉnh, lưới nghi phá sạch, giữa đường mê.

    31. Phản vọng quy chơn, nhất niệm hồi đầu tức bỉ ngạn;
          Tầm ngưu phỏng tích, tam quan tham thấu nhập không môn.

          反 妄 歸 真 一 念 迴 頭 即 彼 岸
          尋 牛 訪 跡 三 關 參 透 入 空 門

    Tạm dịch:

          Bỏ vọng về chơn, một niệm quay đầu là bến giác;
          Tìm trâu hỏi dấu, ba quan (cửa ải) tham thấu tới cửa không.
                                          (Tặng chùa Kim Quang - Huế)

    32. Pháp bản như như, mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ chi giả phi không phi hữu;
          Tâm nguyên tịch tịch, tức hồ thử vi thiện vi lạc ly hồ thử thị khổ thị ưu.

          法 本 如 如 迷 之 者 謂 色 謂 聲 悟 之 者 非 空 非 有
          心 原 寂 寂 即 乎 此 為 善 為 樂 離 乎 此 是 苦 是 憂

    Tạm dịch:

           Gốc pháp như như, người mê nó thì bảo là sắc là tiếng, người ngộ nó thì chẳng không chẳng có;
           Nguồn tâm lặng lặng, tức nơi đây là lành là vui, lìa nơi đây thì khổ thì lo.
                                                                               (Tặng chùa Bảo Lộc - Lâm Đồng)

    33. Pháp thủy trường lưu xứ xứ nhuận tiêu khô, túng ngộ thạch bàn, bất đoạn Tào Khê cam lồ mạch;
          Từ phong phổ phiến, thời thời thôi nhiệt não, thiết tao lam khí, nhưng hội liên trì giải thoát hương.

          法 水 長 流 處 處 潤 消 枯 縱 遇 石 盤 不 斷 曹 溪 甘 露 脈
          慈 風 普 扇 時 時 摧 熱 惱 設 遭 嵐 氣 仍 會 蓮 池 解 脫 香

    Tạm dịch:

          Dòng nước pháp chảy dài, chốn chốn tưới nhuần tiêu khô hạn, dẫu gặp đá bàn vẫn không dứt mạch Tào khê Cam lộ;
          Ngọn gió từ thổi khắp, thời thời xua nhiệt đẩy sầu lo, dù vào khí chướng mà cứ nồng hương Giải thoát Liên trì.

    34. Kỷ độ công huân trường hạo nguyệt,
          Nhất sanh kỳ khí túng cao phong;

          幾 度 功 勳 長 皓 月
          一 生 奇 氣 縱 高 峰

    Tạm dịch:

          Mấy độ công huân dài trăng sáng;
          Một đời kỳ khí ngút tận núi cao.

    35. Thử địa hữu duyên tàng tịnh cốt,
          Giá sơn đắc dự ngộ chân nhân.

          此 地 有 緣 藏 淨 骨
          這 山 得 譽 遇 真 人

    Tạm dịch:

          Đất ấy duyên may chôn tịnh cốt;
          Núi này vinh dự gặp chân nhân.

    36. Trúc thanh, tùng thanh, chung khánh thanh thanh thanh vô ngại;
          Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.

          竹 聲 松 聲 鐘 磬 聲 聲 聲 無 礙
          山 色 水 色 煙 霞 色 色 色 皆 空

    Tạm dịch:

          Tiếng trúc, tiếng tùng, tiếng khánh chuông, tiếng tiếng đều chẳng ngại;
          Màu non, màu nước, màu mây khói, màu màu cũng vẫn không.
                                                               (Đối ở chùa sư nữ Diệu Đức – Huế)

    37. Tích nhật dĩ tằng vi hiếu tử, vi minh quân, xả mạng thí thân, cứu hộ chúng sinh xuất mê đồ khổ thú;
          Kim sinh hựu phục khí quốc thành, khí trân bảo, hàng ma sát tặc, viên thành chánh quả khai giác lộ thiền môn.

          昔 日 已 曾 為 孝 子 為 明 君 捨 命 施 身 救 護 眾 生 出 迷 途 苦 趣
          今 生 又 復 棄 國 城 棄 珍 寶 降 魔 殺 賊 圓 成 正 果 開 覺 路 禪 門

    Tạm dịch:

          Xưa ngài từng làm con hiếu, làm vua hiền, xả mạng, bỏ thân, giúp chúng sanh khỏi đường mê lối khổ;
          Đời này lại bỏ quốc gia, bỏ của báu, hàng ma, giết tặc, thành chánh quả khai nẻo Giác cửa thiền.   
                                                                                                  (Đối tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

    38. Thị chúng sinh như xích tử, khởi ngộ trừ mê, bi cực tam luân khuếch ngũ thừa nhi thùy phạm;
          Đỗ pháp giới nhược không hoa, triền căn tuyệt tướng, trí viên thập lực đào vạn tượng dĩ nghiêm qui.

          視 眾 生 如 赤 子 啟 悟 除 迷 悲 極 三 輪 廓 五 乘 而 垂 範 
          睹 法 界 若 空 花 旋 根 絕 相 智 圓 十 力 陶 萬 像 以 嚴 規

    Tạm dịch:

          Xem chúng sanh như con đỏ, khai ngộ trừ mê, lòng xót ba luân, mở năm thừa mà ban khuôn phép;
          Ngắm pháp giới tợ hoa không, bỏ căn dứt tướng, trí tròn mười lực, suy vạn tượng để lập nghiêm qui.         
                                                                       (Đối tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

    39. Phạn thục dĩ đa thì, chỉ đồ kiến tánh ngôn hạ tri quy, bách xích can đầu trùng tấn bộ,
          Tảo tri đăng thị hỏa, bát thảo tham huyền thinh tiền ngộ chỉ, nhất luân minh nguyệt dạ truyền y.

          飯 熟 已 多 時 指 圖 見 性 言 下 知 歸 百 尺 竿 頭 重 進 步
          早 知 燈 是 火 撥 草 參 懸 聲 前 悟 旨 一 輪 明 月 夜 傳 衣

    Tạm dịch:

          Cơm chín đã từ lâu, trỏ đồ hình, thấy tâm tính; lời dứt biết ngay chỗ về, đầu sào trăm thước còn cất bước;
          Sớm hay đèn là lửa, trừ cỏ rối, tham diệu huyền, tiếng truyền ngộ liền ý chỉ, trăng sáng một vầng, tối truyền y. 
                                                                      (Đối nhà Tổ tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

    40. Bát-nhã bổn vô ngôn, ly tứ cú, tuyệt bách phi, ứng hóa tùy duyên thuyết vô lượng vô biên diệu pháp;
          Bồ-đề tiên hữu nguyện, chứng tam minh, cụ ngũ nhãn, câu viên phước quả thành đại hùng đại lực từ tôn.

          般 若 本 無 言 離 四 句 絕 百 非 應 化 隨 緣 說 無 量 無 邊 妙 法
          菩 提 先 有 願 證 三 明 具 五 眼 俱 圓 福 果 成 大 雄 大 力 慈 尊

    Tạm dịch:

           Bát-nhã vốn không lời, lìa tứ cú, bỏ bách phi, ứng hóa tùy duyên, giảng diệu pháp vô lượng, vô biên;
           Bồ-đề cần có nguyện, chứng tam minh, đủ ngũ nhãn, tròn đầy quả phúc, thành từ tôn đại hùng, đại lực.    
                                                             (Đối tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

    41. Chí đạo bất ngại ngôn thuyên, tức tục tức chơn, đốn ngộ khẳng thừa đương, vận thủy bang sài giai diệu dụng;
          Nghi tình nhất phiên khám phá, phi tâm phi vật, bổn lai chơn diện mục, ma chuyên thụ chỉ tổng thiền cơ.
     
          至 道 不 在 言 詮 即 俗 即 真 頓 悟 肯 乘 當 運 水 梆 柴 皆 妙 用
          疑 情 一 番 勘 破 非 心 非 物 本 來 真 面 目 磨 磚 豎 指 總 禪 機

    Tạm dịch:

            Đạo rốt ráo đâu ở thuyết đàm, là tục, là chơn, ngộ liền vẫn vậy, gánh nước nôi, chặt củi nè đều là diệu dụng;
            Tình nghi nan một khi khám phá, chẳng tâm, chẳng vật, mặt mũi xưa nay, mài ngói gạch, giơ ngón tay cũng chỉ thiền cơ. 
                                                                                                                               (Đối chùa Thiền Tôn)

    42. Vĩnh khí tà tư quy hướng Phật đà tăng phước lạc;
          Quang hàm vạn tượng trượng bằng tuệ nhật phá sân si.

          永 棄 邪 思 歸 向 佛 陀 增 福 樂
          光 含 萬 像 仗 憑 慧 日 破 瞋 癡

    Tạm dịch:

          Mãi bỏ ý tà, qui hướng Phật đà, thêm phước lạc;
          Bao gồm vạn vật, nương theo vầng tuệ, phá sân si.

    43. Nhập giải thoát môn, thiết đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp;
          Chứng Tam Bảo địa, thường hành từ bi hỷ xả vô lượng tâm.

          入 解 脫 門 設 斷 貪 瞋 癡 慢 有 漏 業
          證 三 寶 地 常 行 慈 悲 喜 捨 無 量 心

    Tạm dịch:

          Vào cửa giải thoát, nghiệp hữu lậu tham sân si mạn phải quyết dứt trừ;
          Chứng miền Tam bảo, tâm vô lượng từ bi hỷ xả cần luôn thực hiện.
                                                     (Tặng chùa Vĩnh Quang)

    44. Lý tuyệt lưỡng biên tức tâm tức vật;
          Đạo vô đốn tiệm phi thật phi quyền.

          理 絕 兩 邊 即 心 即 物
          道 無 頓 漸 非 實 非 權

    Tạm dịch:

          Lý dứt hai bên, là tâm là vật;
          Đạo không mau chậm, chẳng thật chẳng quyền.

    45. Vệ già lam nhi thanh tịnh;
          Hộ Phật pháp dĩ trường tồn.

          衛 伽 藍 而 清 淨
          護 佛  法 以 長 存

    Tạm dịch:

          Giúp già lam thành thanh tịnh,
          Hộ Phật pháp được trường tồn”.

    46. Chân tục hỗ dung duyệt đệ nhất nghĩa;
          Tự tha kiêm lợi nhập bất nhị môn.

          真 俗 互 融 閱 第 一 義
          自 他 兼 利 入 不 二 門

    Tạm dịch:

          Chân tục đều thông, nêu nghĩa đệ nhất;
          Ta người cùng lợi, vào cửa không hai.

    47. Bảo địa trang nghiêm, sắc hương bất dị;
          Phật môn quảng đại xuất nhập tùy duyên.

          寶 地 莊 嚴 色 香 不 異
          佛 門 廣 大 出 入 隨 緣

    Tạm dịch:

          Đất báu trang nghiêm, sắc hương không khác;
          Cửa Phật quảng đại ra vào tùy duyên.

    48. Nhập thử môn vô tham sân si mạn;
          Đăng thị địa, hữu hùng lực từ bi.

          入 此 門 無 貪 瞋 癡 慢
          登 是 地 有 雄 力 慈 悲

    Tạm dịch:

          Vào cửa đây, không tham, sân, si, mạn;
          Lên đất này, có hùng, lực, từ, bi.

    49. Phứơc tuệ viên tu chơn Phật tử;
          Trí bi song vận đại từ tôn.

          福 慧 圓 修 真 佛 子
          智 悲 雙 運 大 慈 尊

    Tạm dịch:

          Phước tuệ tròn tu chính người Phật tử;
          Trí bi đầy đủ, ấy bậc đại từ.

    50. Cứu khổ tầm thanh Quán Tự Tại;
          Từ bi nguyện lực Diệm Nhiên Vương.

          救 苦 尋 聲 觀 自 在
          慈 悲 願 力 焰 然 王

    Tạm dịch:

          Quán Tự Tại tìm tiếng kêu cứu khổ nạn;
          Diệm Nhiên Vương theo sức nguyện tỏ từ bi.
                        (Câu đối tặng Chùa Quảng Hương Già Lam, Tp. Hồ Chí Minh)

    51. Đại từ Đại bi mẫn chúng sanh, ứng hoá tùy duyên thân kỳ thân nhi địa kỳ địa;
          Đại hỷ đại xả tế hàm thức, oai đức tự tại thánh trung, thánh nhi thiên trung thiên.

          大 慈 大 悲 愍 眾 生 應 化 隨 緣 身 其 身 而 地 其 地
          大 喜 大 捨 濟 含 識 威 德 自 在 聖 中 聖 而 天 中 天

    Tạm dịch:

          Đại từ đại bi thương xót chúng sanh, theo duyên ứng hoá, thân với thân như đất với đất;
          Đại hỷ đại xả cứu tế vạn loài, oai đức tự tại, thánh trong thánh như trời trong trời

    52. Từ nhãn quán chúng sanh ư trí ư ngu thị đồng nhất tử;
          Tôn phong thành Phạm vũ thị không thị sắc nhập bất nhị môn.

          慈 眼 觀 眾 生 於 智 於 愚 是 同 一 子
          宗 風 成 梵 宇 是 空 是 色 入 不 二 門

    Tạm dịch:

          Mắt thương nhìn chúng sanh, kẻ trí kẻ ngu đều là con cả;
          Tông phong xây chùa Phật, ấy không ấy sắc vào cửa không hai.
                                              (Tặng chùa Từ Tôn - Biên Hoà)

    53. Tặng sư bà Diệu Không nhân ngày mừng, thọ 85 tuổi:

          Đạo thọ hoa khai hương mãn kính;
          Tùng lâm nguyệt hiện điểu qui sào

          道 樹 花 開 香 滿 徑
          叢 林 月 現 鳥 歸 巢

    Tạm dịch:

          Cây đạo nở hoa đường hương ngập;
          Rừng thiền trăng sáng tổ chim về.

    54. Viết cho chùa Linh Sơn Pháp Bảo ở Nha Trang - Khánh Hoà

          Tham thiền tu thấu tổ sư quan, văn tự hề vi trọng tại niêm hoa vi tiếu,
          Diệu ngộ yếu cùng tâm lộ tuyệt, ngữ ngôn hà dụng toàn bằng khấu chỉ tam thanh.

          參 禪 修 透 祖 師 關 文 字 兮 為 重 在 拈 花 為 笑
          妙 悟 要 窮 心 路 絕 語 言 何 用 全 憑 扣 指 三 聲

    Tạm dịch:

          Tham thiền phải lọt qua cửa Tổ, văn tự đâu cần, khi niêm hoa mỉm miệng;
          Ngộ đạo cần dứt tuyệt đường tâm, ngữ ngôn nào kể, lúc tay khẩy ba lần.

    55. Tặng chùa Vô Ưu – TP. Hồ Chí Minh

          Hoằng thí đại nguyện, ngọc chất giáng hoàng cung,  phún thủy cửu long tề mộc dục;
          Vi độ quần sanh, kim thân tu tuyết lãnh,  hàm hoa bách điểu cạnh triêu tham.

          弘 施 大 願 玉 質 降 皇 宮 噴 水 九 龍 齊 沐 浴
          為 度 群 生 金 身 修 雪 嶺 含 花 百 鳥 兢 朝 參

    Tạm dịch:

          Rộng thi nguyện lớn, chất ngọc giáng cung vua, chín rồng phun nước tắm;
          Nhằm độ quần sanh, thân vàng tu núi tuyết, trăm chim ngậm hoa chầu.

    56. Tặng chùa Vạn Đức – TP.Hồ Chí Minh

          Vạn pháp nhất như tức tục tức chơn quy giác đạo;
          Đức đồng pháp giới đàm không đàm hữu chuyển mê tâm

          萬 法 一 如 即 俗 即 真 歸 覺 道
          德 同 法 界 談 空 談 有 轉 迷 心

    Tạm dịch:

          Muôn pháp nhất như, là tục là chân, qui đường giác;
          Đức tròn pháp giới, bàn không bàn có chuyển tâm mê.

    57. Tặng khuôn Thuận Hoá ở tại Huế.

         A -  Thuận giác tánh dĩ huân tu vĩnh đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp;
                Hoá mê đầu nhi giải thoát cụ túc từ bi hỉ xả vô lượng tâm.

                順 覺 性 以 勳 修 永 斷 貪 瞋 癡 慢 有 漏 業
                化 迷 投 而 解 脫 具 足 慈 悲 喜 捨 無 量 心
     

    Tạm dịch:

             Theo giác tánh để tu trì, đoạn hết nghiệp hữu lậu tham sân si mạn
             Diệt coĩ mê được giải thoát, đầy đủ tâm vô lượng hỷ xả từ bi.

         B - Pháp bổn như như mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ khứ giả phi không phi hữu;
               Tâm thường tịch tịch tức hồ thử vi lạc vi thiện, li hồ thử thị khổ thị ưu.

              法 本 如 如 迷 之 者 謂 色 謂 聲 悟 去 者 非 空 非 有  
              心 常 寂 寂 即 乎 此 為 樂 為 善 離 乎 此 是 苦 是 憂
     

    Tạm dịch:

              Pháp vốn như như, khi đang mê là sắc là tiếng, khi ngộ rồi chẳng không chẳng có;
              Tâm thường vắng lặng, ở nơi đó là vui là thiện, rời đó ra thì khổ thì lo.

    58. Tặng chùa Tỉnh hội Quảng Trị.

            Quảng khai trí tuệ môn thính pháp văn kinh danh lợi tâm tùng lưu thuỷ khứ;
            Trị bình thanh lương địa tu thân hành thiện thị phi ngôn trục lạc hoa tàn.

             廣 開 智 慧 門 聽 法 聞 經 名 利 心 從 流 水 去
             治 平 清 良 地 修 身 行 善 是 非 言 逐 落 花 殘

    Tạm dịch:

             Mở rộng cửa trí tuệ, thính pháp nghe kinh tâm danh lợi trôi theo dòng nước;
             Đắp bằng đất thanh tịnh, tu thân làm thiện lời phải trái chìm với hoa tàn.

    59. Tức phiền não nhi ngộ bồ-đề thuý liễu hoàng hoa phi ngoại cảnh;
          Liễu vọng duyên dỉ thành bát nhã bạch vân minh nguyệt khởi tha quan.

          息 煩 惱 而 悟 菩 提 翠 柳 黃 花 非 外 境
          了 妄 緣 以 成 般 若 白 雲 明 月 豈 他 觀

    Tạm dịch:

           Dứt phiền não để chứng Bồ-đề liễu biếc hoa vàng đâu cảnh khác
           Hết vọng duyên thì thành Bát-nhã mây trắng trăng trong chẳng đâu xa.
     

                                                                             * * *

    HT. Thích Thiện Siêu
    Gửi ý kiến của bạn
    Tắt
    Telex
    VNI
    Tên của bạn
    Email của bạn
    02/08/2021(Xem: 19173)
    Tiếng chuông chùa vang lên để xoa dịu, vỗ về những tâm hồn lạc lõng, bơ vơ. Hồi chuông Thiên Mụ, mái chùa Vĩnh Nghiêm một thời chứa chan kỷ niệm. Đó là lời mở đầu trong băng nhạc Tiếng Chuông Chùa do Ca sĩ Thanh Thúy trình bày và ấn hành tại hải ngoại vào đầu thập niên 80. Thanh Thúy là ca sĩ hát nhạc vàng, đứng hàng đầu tại VN trước năm 1975. Cô là đệ tử của HT Nguyên Trí ở chùa Bát Nhã, California. Khi Thầy còn ở VN cuối thập niên 80 có đệ tử ở bên Mỹ đã gởi tặng Thầy băng nhạc Tiếng Chuông Chùa này. Hôm nay Thầy nói về chủ đề Tiếng Chuông Chùa, hay tiếng Chuông Đại Hồng Chung. Đại Hồng Chung là một cái chuông lớn được treo lên một cái giá gỗ đặt trong khuôn viên chùa hay trong Chánh điện. Hồng Chung là một pháp khí linh thiêng, là một biểu tượng đầy ý nghĩa của Phật giáo, nên chùa nào cũng phải có, lớn hay nhỏ tùy theo tầm cỡ của mỗi chùa. Hàng ngày Đại Hồng Chung được thỉnh lên vào buổi chiều tối, báo hiệu ngày
    27/07/2021(Xem: 11489)
    Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
    26/07/2021(Xem: 8239)
    Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
    25/07/2021(Xem: 5366)
    Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
    23/07/2021(Xem: 17402)
    Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
    22/07/2021(Xem: 3532)
    Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
    11/07/2021(Xem: 6869)
    Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
    16/06/2021(Xem: 18658)
    Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
    10/06/2021(Xem: 13208)
    Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
    10/06/2021(Xem: 4470)
    Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
    facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
    Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
    nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

    May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
    Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
    may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
    the Land of Ultimate Bliss.

    Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
    Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
    Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
    Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
    Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
    Website: http://www.quangduc.com
    http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
    Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
    [email protected]