Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

28/06/201020:52(Xem: 32637)
Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

Đây là những câu đối của Hòa thượng bổn sư chúng tôi, HT. Thích Thiện Siêu, làm lúc sinh tiền để cho các khuôn hội hoặc các chùa khi những nơi nầy đến xin. Câu nào có nguồn gốc rõ ràng thì chúng tôi ghi chú phía dưới, nếu chưa rõ lắm thì chúng tôi để nguyên.

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

    Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế nơi cố đại lão HT Thích Thiện Siêu trụ trì

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

    Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế nơi cố đại lão HT Thích Thiện Siêu trụ trì

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

    Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế nơi cố đại lão HT Thích Thiện Siêu trụ trì

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

    Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế nơi cố đại lão HT Thích Thiện Siêu trụ trì

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

    Cổng tam quan Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế

    Chánh điện Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

    Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế

    Chùa Từ Đàm tại thành phố Huế

    Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu



    01. Nhập môn nghi xả dung thường tánh;

          Đáo tự ưng sinh hoan hỷ tâm.

           入 門 宜 捨 庸 常 性
           到 寺 應 生 歡 喜 心

    Tạm dịch:
     
              Vào chùa hãy sinh tâm hoan hỷ;
              Đến chùa nên bỏ tánh tầm thường.

    02a.Kim địa trúc Tòng lâm, cô nguyệt quang hàm không tức sắc;
            Sơn đầu hưng bảo sát, quần loan thúy tỏa cổ do kim.
     
             金 地 築 叢 林 孤 月 光 含 空 即 色
             山 頭 興 寶 剎 群 巒 翠 鎖 古 猶 今

    Tạm dịch:
     
                Đất báu xây Tòng lâm, trăng rọi ánh vàng không tức sắc;
                Non cao mở chùa Phật, núi phơi màu biếc, cổ như kim.
                                               (Tặng Tòng lâm Kim Sơn ở đồi Kim Sơn, làng Lựu Bảo, Huế - 1968)

    02a. Kim tướng phóng hào quang biến chiếu thập phương thành tịnh độ,
            Sơn sắc hàm tuế nguyệt viên dung tam tế tức thiền tâm.
               

               金 相 放 毫 光 遍 照 十 方 成 淨 土
               山 色 含 歲 月 圓 融 三 際 即 禪 心

    Tạm dịch:

               Thân vàng phóng hào quang biến khắp mười phương thành cõi tịnh,
               Màu núi bao hàm năm tháng tròn đầy ba cõi tức tâm thiền.

    03. Hồ bạn khởi thiền quan, giáo diễn chơn thừa, nhất tánh viên minh hoàn bản Tế.
          Sơn đầu khai thắng hội, thính lai thuyết pháp, thâm tâm tín nhạo ngộ tiền căn.
     
             湖 畔 起 禪 關 教 演 真 乘 一 性 圓 明 還 本 際  
             山 頭 開 勝 會 聽 來 說 法 深 心 信 樂 悟 前 根

    Tạm dịch:
     
            Bên hồ dựng nếp chùa, diễn dạy chơn thừa, một tánh viên minh về gốc cội;
            Đầu núi khai hội pháp, nghe truyền chánh pháp, toàn tâm hỷ tín ngộ căn xưa.
               (Tặng chùa Hồ Sơn do tổ Tế Căn khai sáng tại Tuy Hòa, kiến thiết lại năm 1984)

    04. Hàm long tái ngọ, đàm kinh phò luật xuất chân thuyên, ứng vật khúc trần, huề đăng thật địa;
          Báo Quốc trùng quang, bát hỏa ma chuyên truyền tổ đạo, đương cơ trực chỉ, bất lạc kỳ đồ.

          含 龍 再 午 談 經 扶 律 出 真 詮 應 物 曲 陳 雟 燈 實 地
          報 國 重 光 撥 火 磨 磚 傳 祖 道 當 機 直 指 不 落 岐 途

    Tạm dịch:
         
           Núi Hàm Long trở lại giữa trưa, giảng kinh phò Luật, nêu rõ lý mầu, ứng theo hoàn cảnh mà trình bày quanh co nhằm dìu dắt bước lên đất thật;
           Chùa Báo Quốc trở lại rạng quang, bươi lửa mài gạch để truyền Tổ đạo, ngay vào căn duyên chỉ thẳng, tránh rơi lạc đường chia.
                                                                         (Câu đối bàn thờ Tổ chùa Báo Quốc sau khi kiến thiết lại năm 1969 )

    05. Khiêm nhẫn hữu dư, phát ý viên thành Tam tụ giới;
          Trí bi vô ngại, chung thân bất thối Tứ hoằng tâm.

          謙 忍 有 餘 發 意 圓 成 三 聚 戒
          智 悲 無 礙 終 身 不 退 四 弘 心

    Tạm dịch:

           Khiêm nhẫn có dư, một nguyện tròn thành Tam tụ giới;
           Trí bi không ngại, trọn đời chẳng thối Bốn hoằng tâm.
                      (Câu đối ở tháp Hòa thượng Thích Thanh Trí chùa Báo Quốc-Huế)

    06. Chỉ đồ kiến tánh, ngôn hạ tri quy, thùy thị can đầu tấn bộ;
          Bát thảo tham huyền, thanh tiền ngộ chỉ thỉ năng tâm nội thừa đương.

          指 圖 見 性 言 下 知 歸 誰 是 竿 頭 進 步
          撥 草 參 玄 聲 前 悟 旨 始 能 心 內 承 當

    Tạm dịch:

          Chỉ đồ hình nhằm thấy tánh thật, ngay lời biết chỗ quay về, đâu là người đầu sào tiến bước?
          Phát cỏ dại để tìm cơ huyền, ứng tiếng thông nơi ý chỉ, mới chính kẻ tự nội thừa đương.
                            (Câu đối ở tháp chùa Báo Quốc - Huế và bàn thờ Tổ ở Long Sơn - Nha Trang)

    07. Quảng đại hạnh, phát thâm tâm, bát thát mê vân, bất quyện hối nhân bồi Phật chủng;
          Cứu chơn không, nghiên diệu chỉ, xung khai tuệ nhật, phùng trường trác tích chấn tông phong.

          廣 大 行 發 深 心 撥 拓 迷 雲 不 倦 誨 人 培 佛 種
          究 真 空 研 妙 旨 沖 開 慧 日 逢 場 卓 錫 振 宗 風

    Tạm dịch:

          Quảng khai đại hạnh, phấn phát tâm sâu, vén bớt mây mê, mệt mỏi chẳng nề dạy người vun Phật chủng;
          Thẩm cứu chân không, thâm nghiên ý diệu, mở ra vầng tuệ, ngay nơi duyên thuận, dựng gậy chấn Tông phong.
                                           (Tặng tháp Hòa thượng Thích Trí Thủ chùa Báo quốc-Huế)

    08. Ngự lãnh thanh phong, phất diện vấn thùy năng tác Phật;
          Bình tiền khô mộc, đãi nhơn tri ngộ vị khai hoa.

          御 嶺 清 風 拂 面 問 誰 能 作 佛
          屏 前 枯 木 待 人 知 遇 為 開 花

    Tạm dịch:
         
          Đỉnh Ngự gió lành phe phất tìm ai hay làm Phật?
          Non Bình cây héo mong chờ người hiểu để nở hoa.
                             (Tặng Khuôn hội Phật giáo Ngự Bình - Huế)

    09. Tức tục nhi chơn, xứ xứ tận thành Hoa tạng giới;
          Bội trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn.

          即 俗 而 真 處 處 盡成 花 藏 界
          背 塵 合 覺 心 心 圓 攝 大 乘 門

          Tức tục mà chơn, nơi nơi đều thành Hoa tạng giới;
          Trái trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn
                          (Tặng tháp HT. Mật Nguyện, chùa Trúc Lâm - Huế)

    10. Quảng khai phương tiện môn, thiện xiển tần già phổ kiến pháp tràng vu xứ xứ;
          Hương biến trang nghiêm độ, tư bồi đạo thọ cao tiêu đức bổn ư trùng trùng.

           廣 開 方 便 門 善 闡 頻 伽 普 建 法 場 于 處 處
           香 遍 莊 嚴 土 滋 陪 道 樹 高 標 德 本 於 重 重

    Tạm dịch:

            Mở rộng cửa phương tiện, khéo xiển tần già, dựng xây pháp tràng khắp chốn chốn;
            Huân ướp đức trang nghiêm, bồi đắp đạo cả, tỏ gốc đức hạnh ở nơi nơi.
                           (Tặng chùa Quảng Hương của Hòa thượng Thích Trí Thủ năm 1970)

    11. Bội giác hiệp trần, mộng lý na tri thân thị huyễn;
          Quy nguyên đắc chỉ, định trung thường chiếu Phật do tâm.

     背 覺 合 塵 夢 裡 那 知 身 是 幻
     歸 源 得 旨 定 中 常 照 佛 猶 心

           Trái giác hiệp trần, trong mộng đâu hay thân là huyễn;
           Về nguồn đặng gốc, lúc định thường thấy Phật tại tâm.
                                                (Tặng chùa Hương Sơn –Huế)

    12. Bảo ấn tông phong “Chỉ vật truyền tâm” nhất cú thoại đầu chơn liễu ngộ;
          Tịnh quang cao đức, tùy duyên hóa đạo “Huyền nhai tán thủ” tận quan thông.
         
          寶 印 宗 風 只 物 傳 心 一 句 話 頭 真 了 悟
          淨 光 高 德 隨 緣 化 道 懸  崖 散 手 盡 觀 通
         
          Tông phong bảo ấn, “Chỉ vật để truyền tâm”, một câu thoại đầu tâm tõ ngộ;
          Cao đức tịnh quang, tùy duyên hóa đạo, buông tay nơi vực thẳm trí dung thông.
                                                                                                        (Tặng chùa Bảo Tịnh - Phú Yên)

    13. Tục đoạn khởi thần chung thức đắc tiêm trần bất trước nhãn;
          Vinh khô thành mộng huyễn giác lai thế giới tổng duy tâm.

          續 斷 起 晨 鐘 識 得 殲 塵 不 著 眼
          榮 枯 成 夢 幻 覺 來 世 界 總 唯 心

          Tiếp, dứt tiếng chuông mai, rõ được bụi trần không dính mắt;
          Tươi, khô giấc mộng huyễn, hay rằng thế giới chỉ là tâm.
                                                             (Tặng chùa Tây Thiên - Huế)

    14. Nhơn y pháp, pháp y nhơn, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp;
          Phật tức tâm, tâm tức Phật, cổ kim bất nhị hợp chơn tông.

          人 依 法 法 依 人 動 靜 隨 緣 消 舊 業
          佛 即 心 心 即 佛 古 今 不 二 合 真 宗

    Tạm dịch:

          Người nương pháp, pháp nương người, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
          Phật tức tâm, tâm tức Phật, xưa nay chẳng khác hợp chơn tông.
                                                                        (Tặng cho một số chùa)

    15. Hậu thương hải, tiền bích giang, thủy nguyệt ba quang tương ánh nguyệt,
          Triêu kim kinh, mộ ngọc kệ, cổ chung thanh hưởng cộng diêu hưng.

          後 滄 海 前 碧 江 水 月 波 光 相 映 月
          朝 金 經 募 玉 偈 鼓 鐘 聲 響 共 遙 興

    Tạm dịch:

          Sau biển rộng, trước sông xanh, trăng nước chập chờn cơn sóng vỗ;
          Sáng kinh vàng, chiều kệ ngọc, trống chuông vang vọng tiếng xa gần.

    16. Hoa bảo phiệt phiến từ hàng, bạt tế ái hà danh lợi khách;
          Diễn kim kinh, tuyên diệu kệ, hoán hồi khổ hải mộng mê nhơn.

          找 寶 筏 泛 慈 航 拔 濟 愛 河 名 利 客
          演 金 經 宣 妙 偈 喚 迴 苦 海 夢 迷 人

    Tạm dịch:

          Thả bè báu, dong thuyền từ, vớt khách lợi danh trên biển ái;
          Diễn kinh vàng, tuyên kệ diệu, gọi người mơ mộng giữa sông mê.
                                        (Tặng Khuông hội Phật giáo An Dương - Huế)

    17. Phạm vũ biến trang nghiêm, nhật phóng trùng tân cảnh sắc;
          Liên đài thường xán lạn, vân khai hiển hiện tường quang.

          梵 宇 遍 莊 嚴 日 放 重 新 境 色
          蓮 臺 常 燦 爛 雲 開 顯 現 祥 光

    Tạm dịch:

          Chùa Phật trang nghiêm, ảnh nhật lung linh như cảnh sắc;
          Đài sen vắng lặng, vầng mây hiển hiện ánh tường quang.

    18. Kiều thọ lăng không thất bảo trang nghiêm quang Phật sát;
          Tòng lâm túng tú, tứ sơn loan bích ánh thiền quan.

          橋 樹 陵 空 七 寶 莊 嚴 光 佛 剎 
          叢 林 聳 秀 四 山 巒 碧 映 禪 關

    Tạm dịch:

          Cây vút tầng không, bảy báu trang nghiêm cõi Phật;
          Rừng tùng xinh tốt, bốn bề non biếc cửa Thiền.

    19. Thiên bách ức kim thân, giáo pháp tuyên dương, nhiếp chúng sanh vu giác địa;
          Tam thập nhị bảo tướng, từ quang biến chiếu, cứu vạn loại xuất mê đồ.

          千 百 億 金 身 教 法 宣 揚 攝 眾 生 于 覺 地
          三 十 二 寶 相 慈 光 遍 照 救 萬 類 出 迷 途

    Tạm dịch:

          Trăm ngàn ức kim thân, Chánh pháp tuyên dương, nhiếp hóa chúng sanh về nẻo giác ;
          Ba mươi hai bảo tướng, ánh từ chiếu khắp, dìu dắt muôn loài thoát đường mê.
                                             (Ba cặp đối trên - 17,18,19 - tặng chùa Bát Nhã - Phú Yên)

    20. Cảnh trị u thâm, dã thảo nhàn hoa vong tuế nguyệt;
          Sơn cư khoán hoạt thần chung mộ cổ liễu sắc không.

          境 值 幽 深 野 草 閑 花 亡 歲 月
          山 居 曠 闊 晨 鐘 募 鼓 了 色 空

    Tạm dịch:

          Gặp cảnh thâm u, cỏ nội hoa đồng quên năm tháng;
          Ở non phóng khoáng chuông hôm mõ sớm tỏ sắc không.

    21. Tuệ nhật cao huyền, phổ chiếu chúng sanh vu giác đạo;
          Từ phong phổ phiến, tề tư vạn loại xuất mê tân.

          慧 日 高 懸 普 照 眾 生 于 覺 道
          慈 風 普 扇 齊 資 萬 類 出 迷 津

    Tạm dịch:

          Tuệ nhật treo cao, chiếu khắp quần sanh về đường giác;
          Gió từ phơ phất, mát cùng vạn loại khỏi bến mê.

    22. Tận xả Tham, Sân, Si, đương thử độ nhi vi Tịnh độ;
          Viên tu Giới, Định, Tuệ, tức phàm tâm hóa tác Thánh tâm.

          盡 捨 貪 瞋 癡 當 此 土 而 為 淨 土
          圓 修 戒 定 慧 即 凡 心 化 作 聖 心

    Tạm dịch:

          Bỏ hết Tham, Sân, Si, chính tại đây là Tịnh độ;
          Tu tròn Giới, Định, Tuệ, ngay phàm tâm chính Thánh tâm.
                                (Tặng cho chùa Diên Bình - Quảng Trị)

    23. Khánh trị u thâm, mộ cổ thần chung vong lụy kiếp;
          Sơn cư khoán hoạt, nhàn hoa dã thảo liễu tam sanh.

          慶 值 幽 深 募 鼓 晨 鐘 亡 累 劫
          山 居 曠 闊 閑 花 野 草 了 三 生

    Tạm dịch:
          
           Gặp cảnh thâm u mõ sớm chuông chiều sạch kiếp khổ,
           Ở non phóng khoáng vui cùng hoa cỏ ngộ ba sanh.
                                            (Tặng chùa Khánh Sơn - Huế)

    24. Bái thủ chú đàn hương, tam thiên giới kiết tường vân, phụng hiến Như Lai liên tọa thượng;
          Tín tâm trì Phật hiệu, bách bát thanh thành chánh niệm, kỳ sanh Tịnh độ bảo liên trung.

          拜 手 炷 壇 香 三 千 界 結 祥 雲 奉 獻 如 來 蓮 坐 上
          信 心 持 佛 號 百 八 聲 成 正 念 祈 生 淨 土 寶 蓮 中

    Tạm dịch:

          Tay sạch đốt hương đàn, thế giới ba ngàn kết mây lành, dâng hiến Như Lai trên bảo tọa;
          Tâm thành trì hiệu Phật, một trăm lẻ tám thành niệm chánh, cầu sanh Tịnh độ giữa hoa sen.

    25. Tiền lục thủy, hậu thanh sơn, phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu;
          Mộ kim kinh, triêu ngọc kệ, trần tâm địch tận chánh niệm phân minh.

          前 錄 水 後 青 山 梵 宇 輝 煌 佛 光 遍 照
          募 金 經 朝 玉 偈 塵 心 滌 盡 正 念 分 明

    Tạm dịch:

          Trước nước biếc, sau non xanh, Phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu;
          Chiều kinh vàng, sáng kệ ngọc, lòng trần gột sạch, chánh niệm phân minh.
                                                                            (Tặng chùa Hải Ấn - Nha Trang)

    26. Phật bất ly tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp;
          Chí tồn đại đạo, khứ lai vô ngại ngộ thiền cơ.

          佛 不 離 心 動 靜 隨 緣 消 舊 業
          志 存 大 道 去 來 無 礙 悟 禪 機

    Tạm dịch:

          Phật chẳng lìa tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
          Chí nơi đạo cả, đến đi vô ngại ngộ cơ thiền.

    27. Trí huệ tâm khai, lũy kiếp hôn mê tùng tiệt đoạn;
          Từ bi niệm khởi, đa sanh nghiệp chướng tự tiêu vong.

          智 慧 心 開 累 劫 昏 迷 從 截 斷
          慈 悲 念 起 多 生 業 障 自 標 亡

    Tạm dịch:

          Tâm trí huệ mở bày, lũy kiếp hôn mê liền dứt sạch;
          Niệm từ bi dấy khởi, nhiều đời nghiệp chướng tự tiêu vong.

    28. Chấp ngã chấp nhơn, kiến sắc văn thanh, thành quá hoạn;
          Tu bi tu trí, cử tâm động niệm, nhậm dung thông ?

          執 我 執 人 見 色 聞 聲 成 過 患
          修 悲 修 智 舉 心 動 念 任 容 通

    Tạm dịch:

          Chấp ngã chấp nhơn, thấy sắc nghe thanh đều tội lỗi?
          Tu bi tu trí, khởi tâm động niệm thảy dung thông.
                             (Tặng Khuông hội Phật giáo An Bằng - Huế)

    29. Ly tứ cú, tuyệt bách phi, tự thử vong ngôn, chân hữu đạo;
          Tồn  lục căn, tịnh tam nghiệp, chỉ ư tức niệm chứng vô sanh.

          離 四 句 絕 百 非 自 此 忘 言 真 有 道
          旋 六 根 淨 三 業 只 於 息 念 證 無 生

    Tạm dịch:

          Dứt trăm quấy, lìa bốn câu, tự chỗ vong ngôn mới thật đạo;
          Xoay sáu căn, sạch ba nghiệp, chính nơi dứt niệm ấy vô sanh.

    30. Tùy kỳ thiện nguyện, tiếp độ vi sư, duyệt chúng tâm ư đại đạo;
          Thí vô duyên từ, tác bất thỉnh hữu, phá nghi võng ư u đồ.

          隨 其 善 願 接 度 為 師 悅 眾 心 於 大 道
          施 無 緣 慈 作 不 請 友 破 疑 網 於 幽 途

    Tạm dịch:

          Theo thiện nguyện nó, tiếp độ cho làm thầy, tâm chúng được vui trong đạo lớn;
          Thí vô duyên từ, làm người bạn không thỉnh, lưới nghi phá sạch, giữa đường mê.

    31. Phản vọng quy chơn, nhất niệm hồi đầu tức bỉ ngạn;
          Tầm ngưu phỏng tích, tam quan tham thấu nhập không môn.

          反 妄 歸 真 一 念 迴 頭 即 彼 岸
          尋 牛 訪 跡 三 關 參 透 入 空 門

    Tạm dịch:

          Bỏ vọng về chơn, một niệm quay đầu là bến giác;
          Tìm trâu hỏi dấu, ba quan (cửa ải) tham thấu tới cửa không.
                                          (Tặng chùa Kim Quang - Huế)

    32. Pháp bản như như, mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ chi giả phi không phi hữu;
          Tâm nguyên tịch tịch, tức hồ thử vi thiện vi lạc ly hồ thử thị khổ thị ưu.

          法 本 如 如 迷 之 者 謂 色 謂 聲 悟 之 者 非 空 非 有
          心 原 寂 寂 即 乎 此 為 善 為 樂 離 乎 此 是 苦 是 憂

    Tạm dịch:

           Gốc pháp như như, người mê nó thì bảo là sắc là tiếng, người ngộ nó thì chẳng không chẳng có;
           Nguồn tâm lặng lặng, tức nơi đây là lành là vui, lìa nơi đây thì khổ thì lo.
                                                                               (Tặng chùa Bảo Lộc - Lâm Đồng)

    33. Pháp thủy trường lưu xứ xứ nhuận tiêu khô, túng ngộ thạch bàn, bất đoạn Tào Khê cam lồ mạch;
          Từ phong phổ phiến, thời thời thôi nhiệt não, thiết tao lam khí, nhưng hội liên trì giải thoát hương.

          法 水 長 流 處 處 潤 消 枯 縱 遇 石 盤 不 斷 曹 溪 甘 露 脈
          慈 風 普 扇 時 時 摧 熱 惱 設 遭 嵐 氣 仍 會 蓮 池 解 脫 香

    Tạm dịch:

          Dòng nước pháp chảy dài, chốn chốn tưới nhuần tiêu khô hạn, dẫu gặp đá bàn vẫn không dứt mạch Tào khê Cam lộ;
          Ngọn gió từ thổi khắp, thời thời xua nhiệt đẩy sầu lo, dù vào khí chướng mà cứ nồng hương Giải thoát Liên trì.

    34. Kỷ độ công huân trường hạo nguyệt,
          Nhất sanh kỳ khí túng cao phong;

          幾 度 功 勳 長 皓 月
          一 生 奇 氣 縱 高 峰

    Tạm dịch:

          Mấy độ công huân dài trăng sáng;
          Một đời kỳ khí ngút tận núi cao.

    35. Thử địa hữu duyên tàng tịnh cốt,
          Giá sơn đắc dự ngộ chân nhân.

          此 地 有 緣 藏 淨 骨
          這 山 得 譽 遇 真 人

    Tạm dịch:

          Đất ấy duyên may chôn tịnh cốt;
          Núi này vinh dự gặp chân nhân.

    36. Trúc thanh, tùng thanh, chung khánh thanh thanh thanh vô ngại;
          Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.

          竹 聲 松 聲 鐘 磬 聲 聲 聲 無 礙
          山 色 水 色 煙 霞 色 色 色 皆 空

    Tạm dịch:

          Tiếng trúc, tiếng tùng, tiếng khánh chuông, tiếng tiếng đều chẳng ngại;
          Màu non, màu nước, màu mây khói, màu màu cũng vẫn không.
                                                               (Đối ở chùa sư nữ Diệu Đức – Huế)

    37. Tích nhật dĩ tằng vi hiếu tử, vi minh quân, xả mạng thí thân, cứu hộ chúng sinh xuất mê đồ khổ thú;
          Kim sinh hựu phục khí quốc thành, khí trân bảo, hàng ma sát tặc, viên thành chánh quả khai giác lộ thiền môn.

          昔 日 已 曾 為 孝 子 為 明 君 捨 命 施 身 救 護 眾 生 出 迷 途 苦 趣
          今 生 又 復 棄 國 城 棄 珍 寶 降 魔 殺 賊 圓 成 正 果 開 覺 路 禪 門

    Tạm dịch:

          Xưa ngài từng làm con hiếu, làm vua hiền, xả mạng, bỏ thân, giúp chúng sanh khỏi đường mê lối khổ;
          Đời này lại bỏ quốc gia, bỏ của báu, hàng ma, giết tặc, thành chánh quả khai nẻo Giác cửa thiền.   
                                                                                                  (Đối tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

    38. Thị chúng sinh như xích tử, khởi ngộ trừ mê, bi cực tam luân khuếch ngũ thừa nhi thùy phạm;
          Đỗ pháp giới nhược không hoa, triền căn tuyệt tướng, trí viên thập lực đào vạn tượng dĩ nghiêm qui.

          視 眾 生 如 赤 子 啟 悟 除 迷 悲 極 三 輪 廓 五 乘 而 垂 範 
          睹 法 界 若 空 花 旋 根 絕 相 智 圓 十 力 陶 萬 像 以 嚴 規

    Tạm dịch:

          Xem chúng sanh như con đỏ, khai ngộ trừ mê, lòng xót ba luân, mở năm thừa mà ban khuôn phép;
          Ngắm pháp giới tợ hoa không, bỏ căn dứt tướng, trí tròn mười lực, suy vạn tượng để lập nghiêm qui.         
                                                                       (Đối tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

    39. Phạn thục dĩ đa thì, chỉ đồ kiến tánh ngôn hạ tri quy, bách xích can đầu trùng tấn bộ,
          Tảo tri đăng thị hỏa, bát thảo tham huyền thinh tiền ngộ chỉ, nhất luân minh nguyệt dạ truyền y.

          飯 熟 已 多 時 指 圖 見 性 言 下 知 歸 百 尺 竿 頭 重 進 步
          早 知 燈 是 火 撥 草 參 懸 聲 前 悟 旨 一 輪 明 月 夜 傳 衣

    Tạm dịch:

          Cơm chín đã từ lâu, trỏ đồ hình, thấy tâm tính; lời dứt biết ngay chỗ về, đầu sào trăm thước còn cất bước;
          Sớm hay đèn là lửa, trừ cỏ rối, tham diệu huyền, tiếng truyền ngộ liền ý chỉ, trăng sáng một vầng, tối truyền y. 
                                                                      (Đối nhà Tổ tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

    40. Bát-nhã bổn vô ngôn, ly tứ cú, tuyệt bách phi, ứng hóa tùy duyên thuyết vô lượng vô biên diệu pháp;
          Bồ-đề tiên hữu nguyện, chứng tam minh, cụ ngũ nhãn, câu viên phước quả thành đại hùng đại lực từ tôn.

          般 若 本 無 言 離 四 句 絕 百 非 應 化 隨 緣 說 無 量 無 邊 妙 法
          菩 提 先 有 願 證 三 明 具 五 眼 俱 圓 福 果 成 大 雄 大 力 慈 尊

    Tạm dịch:

           Bát-nhã vốn không lời, lìa tứ cú, bỏ bách phi, ứng hóa tùy duyên, giảng diệu pháp vô lượng, vô biên;
           Bồ-đề cần có nguyện, chứng tam minh, đủ ngũ nhãn, tròn đầy quả phúc, thành từ tôn đại hùng, đại lực.    
                                                             (Đối tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

    41. Chí đạo bất ngại ngôn thuyên, tức tục tức chơn, đốn ngộ khẳng thừa đương, vận thủy bang sài giai diệu dụng;
          Nghi tình nhất phiên khám phá, phi tâm phi vật, bổn lai chơn diện mục, ma chuyên thụ chỉ tổng thiền cơ.
     
          至 道 不 在 言 詮 即 俗 即 真 頓 悟 肯 乘 當 運 水 梆 柴 皆 妙 用
          疑 情 一 番 勘 破 非 心 非 物 本 來 真 面 目 磨 磚 豎 指 總 禪 機

    Tạm dịch:

            Đạo rốt ráo đâu ở thuyết đàm, là tục, là chơn, ngộ liền vẫn vậy, gánh nước nôi, chặt củi nè đều là diệu dụng;
            Tình nghi nan một khi khám phá, chẳng tâm, chẳng vật, mặt mũi xưa nay, mài ngói gạch, giơ ngón tay cũng chỉ thiền cơ. 
                                                                                                                               (Đối chùa Thiền Tôn)

    42. Vĩnh khí tà tư quy hướng Phật đà tăng phước lạc;
          Quang hàm vạn tượng trượng bằng tuệ nhật phá sân si.

          永 棄 邪 思 歸 向 佛 陀 增 福 樂
          光 含 萬 像 仗 憑 慧 日 破 瞋 癡

    Tạm dịch:

          Mãi bỏ ý tà, qui hướng Phật đà, thêm phước lạc;
          Bao gồm vạn vật, nương theo vầng tuệ, phá sân si.

    43. Nhập giải thoát môn, thiết đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp;
          Chứng Tam Bảo địa, thường hành từ bi hỷ xả vô lượng tâm.

          入 解 脫 門 設 斷 貪 瞋 癡 慢 有 漏 業
          證 三 寶 地 常 行 慈 悲 喜 捨 無 量 心

    Tạm dịch:

          Vào cửa giải thoát, nghiệp hữu lậu tham sân si mạn phải quyết dứt trừ;
          Chứng miền Tam bảo, tâm vô lượng từ bi hỷ xả cần luôn thực hiện.
                                                     (Tặng chùa Vĩnh Quang)

    44. Lý tuyệt lưỡng biên tức tâm tức vật;
          Đạo vô đốn tiệm phi thật phi quyền.

          理 絕 兩 邊 即 心 即 物
          道 無 頓 漸 非 實 非 權

    Tạm dịch:

          Lý dứt hai bên, là tâm là vật;
          Đạo không mau chậm, chẳng thật chẳng quyền.

    45. Vệ già lam nhi thanh tịnh;
          Hộ Phật pháp dĩ trường tồn.

          衛 伽 藍 而 清 淨
          護 佛  法 以 長 存

    Tạm dịch:

          Giúp già lam thành thanh tịnh,
          Hộ Phật pháp được trường tồn”.

    46. Chân tục hỗ dung duyệt đệ nhất nghĩa;
          Tự tha kiêm lợi nhập bất nhị môn.

          真 俗 互 融 閱 第 一 義
          自 他 兼 利 入 不 二 門

    Tạm dịch:

          Chân tục đều thông, nêu nghĩa đệ nhất;
          Ta người cùng lợi, vào cửa không hai.

    47. Bảo địa trang nghiêm, sắc hương bất dị;
          Phật môn quảng đại xuất nhập tùy duyên.

          寶 地 莊 嚴 色 香 不 異
          佛 門 廣 大 出 入 隨 緣

    Tạm dịch:

          Đất báu trang nghiêm, sắc hương không khác;
          Cửa Phật quảng đại ra vào tùy duyên.

    48. Nhập thử môn vô tham sân si mạn;
          Đăng thị địa, hữu hùng lực từ bi.

          入 此 門 無 貪 瞋 癡 慢
          登 是 地 有 雄 力 慈 悲

    Tạm dịch:

          Vào cửa đây, không tham, sân, si, mạn;
          Lên đất này, có hùng, lực, từ, bi.

    49. Phứơc tuệ viên tu chơn Phật tử;
          Trí bi song vận đại từ tôn.

          福 慧 圓 修 真 佛 子
          智 悲 雙 運 大 慈 尊

    Tạm dịch:

          Phước tuệ tròn tu chính người Phật tử;
          Trí bi đầy đủ, ấy bậc đại từ.

    50. Cứu khổ tầm thanh Quán Tự Tại;
          Từ bi nguyện lực Diệm Nhiên Vương.

          救 苦 尋 聲 觀 自 在
          慈 悲 願 力 焰 然 王

    Tạm dịch:

          Quán Tự Tại tìm tiếng kêu cứu khổ nạn;
          Diệm Nhiên Vương theo sức nguyện tỏ từ bi.
                        (Câu đối tặng Chùa Quảng Hương Già Lam, Tp. Hồ Chí Minh)

    51. Đại từ Đại bi mẫn chúng sanh, ứng hoá tùy duyên thân kỳ thân nhi địa kỳ địa;
          Đại hỷ đại xả tế hàm thức, oai đức tự tại thánh trung, thánh nhi thiên trung thiên.

          大 慈 大 悲 愍 眾 生 應 化 隨 緣 身 其 身 而 地 其 地
          大 喜 大 捨 濟 含 識 威 德 自 在 聖 中 聖 而 天 中 天

    Tạm dịch:

          Đại từ đại bi thương xót chúng sanh, theo duyên ứng hoá, thân với thân như đất với đất;
          Đại hỷ đại xả cứu tế vạn loài, oai đức tự tại, thánh trong thánh như trời trong trời

    52. Từ nhãn quán chúng sanh ư trí ư ngu thị đồng nhất tử;
          Tôn phong thành Phạm vũ thị không thị sắc nhập bất nhị môn.

          慈 眼 觀 眾 生 於 智 於 愚 是 同 一 子
          宗 風 成 梵 宇 是 空 是 色 入 不 二 門

    Tạm dịch:

          Mắt thương nhìn chúng sanh, kẻ trí kẻ ngu đều là con cả;
          Tông phong xây chùa Phật, ấy không ấy sắc vào cửa không hai.
                                              (Tặng chùa Từ Tôn - Biên Hoà)

    53. Tặng sư bà Diệu Không nhân ngày mừng, thọ 85 tuổi:

          Đạo thọ hoa khai hương mãn kính;
          Tùng lâm nguyệt hiện điểu qui sào

          道 樹 花 開 香 滿 徑
          叢 林 月 現 鳥 歸 巢

    Tạm dịch:

          Cây đạo nở hoa đường hương ngập;
          Rừng thiền trăng sáng tổ chim về.

    54. Viết cho chùa Linh Sơn Pháp Bảo ở Nha Trang - Khánh Hoà

          Tham thiền tu thấu tổ sư quan, văn tự hề vi trọng tại niêm hoa vi tiếu,
          Diệu ngộ yếu cùng tâm lộ tuyệt, ngữ ngôn hà dụng toàn bằng khấu chỉ tam thanh.

          參 禪 修 透 祖 師 關 文 字 兮 為 重 在 拈 花 為 笑
          妙 悟 要 窮 心 路 絕 語 言 何 用 全 憑 扣 指 三 聲

    Tạm dịch:

          Tham thiền phải lọt qua cửa Tổ, văn tự đâu cần, khi niêm hoa mỉm miệng;
          Ngộ đạo cần dứt tuyệt đường tâm, ngữ ngôn nào kể, lúc tay khẩy ba lần.

    55. Tặng chùa Vô Ưu – TP. Hồ Chí Minh

          Hoằng thí đại nguyện, ngọc chất giáng hoàng cung,  phún thủy cửu long tề mộc dục;
          Vi độ quần sanh, kim thân tu tuyết lãnh,  hàm hoa bách điểu cạnh triêu tham.

          弘 施 大 願 玉 質 降 皇 宮 噴 水 九 龍 齊 沐 浴
          為 度 群 生 金 身 修 雪 嶺 含 花 百 鳥 兢 朝 參

    Tạm dịch:

          Rộng thi nguyện lớn, chất ngọc giáng cung vua, chín rồng phun nước tắm;
          Nhằm độ quần sanh, thân vàng tu núi tuyết, trăm chim ngậm hoa chầu.

    56. Tặng chùa Vạn Đức – TP.Hồ Chí Minh

          Vạn pháp nhất như tức tục tức chơn quy giác đạo;
          Đức đồng pháp giới đàm không đàm hữu chuyển mê tâm

          萬 法 一 如 即 俗 即 真 歸 覺 道
          德 同 法 界 談 空 談 有 轉 迷 心

    Tạm dịch:

          Muôn pháp nhất như, là tục là chân, qui đường giác;
          Đức tròn pháp giới, bàn không bàn có chuyển tâm mê.

    57. Tặng khuôn Thuận Hoá ở tại Huế.

         A -  Thuận giác tánh dĩ huân tu vĩnh đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp;
                Hoá mê đầu nhi giải thoát cụ túc từ bi hỉ xả vô lượng tâm.

                順 覺 性 以 勳 修 永 斷 貪 瞋 癡 慢 有 漏 業
                化 迷 投 而 解 脫 具 足 慈 悲 喜 捨 無 量 心
     

    Tạm dịch:

             Theo giác tánh để tu trì, đoạn hết nghiệp hữu lậu tham sân si mạn
             Diệt coĩ mê được giải thoát, đầy đủ tâm vô lượng hỷ xả từ bi.

         B - Pháp bổn như như mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ khứ giả phi không phi hữu;
               Tâm thường tịch tịch tức hồ thử vi lạc vi thiện, li hồ thử thị khổ thị ưu.

              法 本 如 如 迷 之 者 謂 色 謂 聲 悟 去 者 非 空 非 有  
              心 常 寂 寂 即 乎 此 為 樂 為 善 離 乎 此 是 苦 是 憂
     

    Tạm dịch:

              Pháp vốn như như, khi đang mê là sắc là tiếng, khi ngộ rồi chẳng không chẳng có;
              Tâm thường vắng lặng, ở nơi đó là vui là thiện, rời đó ra thì khổ thì lo.

    58. Tặng chùa Tỉnh hội Quảng Trị.

            Quảng khai trí tuệ môn thính pháp văn kinh danh lợi tâm tùng lưu thuỷ khứ;
            Trị bình thanh lương địa tu thân hành thiện thị phi ngôn trục lạc hoa tàn.

             廣 開 智 慧 門 聽 法 聞 經 名 利 心 從 流 水 去
             治 平 清 良 地 修 身 行 善 是 非 言 逐 落 花 殘

    Tạm dịch:

             Mở rộng cửa trí tuệ, thính pháp nghe kinh tâm danh lợi trôi theo dòng nước;
             Đắp bằng đất thanh tịnh, tu thân làm thiện lời phải trái chìm với hoa tàn.

    59. Tức phiền não nhi ngộ bồ-đề thuý liễu hoàng hoa phi ngoại cảnh;
          Liễu vọng duyên dỉ thành bát nhã bạch vân minh nguyệt khởi tha quan.

          息 煩 惱 而 悟 菩 提 翠 柳 黃 花 非 外 境
          了 妄 緣 以 成 般 若 白 雲 明 月 豈 他 觀

    Tạm dịch:

           Dứt phiền não để chứng Bồ-đề liễu biếc hoa vàng đâu cảnh khác
           Hết vọng duyên thì thành Bát-nhã mây trắng trăng trong chẳng đâu xa.
     

                                                                             * * *

    HT. Thích Thiện Siêu
    Gửi ý kiến của bạn
    Tắt
    Telex
    VNI
    Tên của bạn
    Email của bạn
    15/11/2021(Xem: 4000)
    Là người thâm tín Phật, cung kính phụng thờ Tam Bảo, thì luôn có một đức tin kiên cố rằng: Dù ở bất cứ thời gian nào, không gian nào vẫn luôn có chân thân các bậc thượng nhân hóa thân hành hoạt cứu nhân độ thế. Các Ngài luôn có mặt giữa cuộc đời để nâng đỡ chúng sanh vạn loại. Vững chải đức tin như thế nên mỗi khi về chùa Phi Lai (hoặc Phi Lai Hòa Thịnh hoặc Phi Lai Biên Hòa, tôi luôn thấy hình bóng chân nhân trưởng lão Tâm Nguyện – Thiện Tu -Thượng DIỆU Hạ TÂM hiện hữu mồn một ở đó. Tôi thấy rất rõ từng bước chân như hoa sen nở Ngài bước đi, như lắng nghe từng tiếng từng lời ngài đang dạy bảo, khuyên lơn, khuyến khích Phật tử chúng ta nuôi dưỡng tâm bồ đề mỗi ngày mỗi lớn hơn lên, từng ngày từng kiên cố hơn. Từ đó tôi thấy : Ngài như chưa từng đến nên Ngài cũng đã chẳng ra đi. Ngài là hiện thân bậc thạc đức “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng . Bất cứ lúc nào Ngài cũng đang có mặt, hiện trú nơi cả hai ngôi chùa Phi Lai Hòa Thịnh Phú Yên và Phi Lai TP Biên Hòa…
    08/11/2021(Xem: 11445)
    Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
    06/11/2021(Xem: 13186)
    Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
    06/11/2021(Xem: 6709)
    Chép lời kinh mượn khuôn trăng làm giấy, Cõi diêm phù đất vẽ dấu chân xưa Đức ân Người sóng vỗ pháp âm đưa Quy thân mạng mười phương con đảnh lễ.
    26/10/2021(Xem: 4699)
    Nhìn chung, đại dịch đang dịu bớt tại Hoa Kỳ và quê nhà. Chưa bao giờ pháp ấn vô thường hiển lộ mãnh liệt như thời gian qua. Chưa bao giờ Khổ Đế hiển hiện minh bạch như thế, ngay trước mắt và ngay bên tai của mọi người đời thường. Có những người buổi sáng mới gặp, tới buổi chiều được tin họ đã nhập viện và không bao giờ có cơ hội gặp lại nữa. Cảm xúc đó đã được nhân loại trải nghiệm trên khắp thế giới, không riêng tại quốc độ nào. Bài viết này xin phép để nói một kinh nghiệm riêng (và có lẽ cũng là kinh nghiệm của rất nhiều người): đọc Kinh Phật trong mùa dịch, với cảm xúc rằng có thể đêm nay sẽ lìa đời. Do vậy, bài viết này cũng để Tạ Ơn Kinh Phật. Nơi đây chỉ là vài ý riêng, người viết hoàn toàn không có thẩm quyền gì về Phật học.
    25/10/2021(Xem: 2526)
    Mây qua trời. Có khi trắng, có khi đen. Có khi tụ, có khi tán. Ngưng tụ mà thực ra là chuyển động liên tục; tán thất mà thực không mất đi đâu. Vận hành tự tại, biến hóa vô số hình thù, rồi tan biến, rồi kết tụ trong một hình thể khác, hiện hữu nơi một không gian khác. Đến-đi cùng khắp, đông tây, nam bắc, phương trên hay phương dưới, không nơi nào mà không có mặt. Từ vô cùng quá khứ đến hiện tại và vô tận tương lai, trông như giống mà thực không giống, trông như cũ mà thực không cũ. Luôn mới mẻ tinh khôi trong từng giây phút. Đêm lẫn ngày, vẫn thường sinh-diệt, chuyển biến không ngừng. Tùy duyên ứng hiện, nơi đâu rồi cũng thuận hợp, chan hòa.
    04/10/2021(Xem: 3755)
    Trong những gì tôi được đọc và được nghe kể, hình như nhà thơ Bùi Giáng không còn tham sân si, hay nếu còn, thì rất là ít. Không rõ có ai chứng kiến lúc nào Bùi Giáng khởi tâm tham sân si hay không. Rất nhiều người đã thân cận, đã chứng kiến đời thường của nhà thơ họ Bùi và đều nhận thấy nhà thơ như là người của cõi khác, người bay trên mây, người lạc tới thế gian này, như dường không còn chút nào tham sân si; hay chỉ còn, nếu có, thì rất ít.
    30/09/2021(Xem: 2671)
    Bên cửa sổ, tia nắng chiều thu len vào. Gió mơn man rung nhẹ lá cây vườn ngoài. Lá vàng lá xanh cùng phơi mình quanh cội cây già. Mùi cỏ thơm dìu dịu gây nỗi nhớ bâng quơ. Tiếng vĩ cầm du dương đâu đó dìu dặt đưa hồn về cảnh cũ quê xưa.
    26/09/2021(Xem: 6576)
    Mùa Hạ nóng bức đã đi qua, mùa Thu chợt đến mang theo những cơn mưa đầu mùa, dấu chân ấy đang lang thang khắp cả dãi nắng niềm Trung, ra tận khắp hai đầu Nam - Bắc. Những giọt mưa đông đang tràn về khi dịch tể hoành hành khắp đất trời và trên Thế giới, trong đó có Việt Nam, khiến cho bao nhiêu triệu người bị thiệt mạng, dẫu có thuốc ngăn ngừa tiêm chủng trên Thế giới, giờ tất cả sống chung với căn bệnh Virus Corona, vì một Đại cuộc sinh tồn bảo vệ nhân sinh. Từ một Quốc gia có tiềm lực kinh tế giàu mạnh, khởi tâm tình thương chia sẻ viện trợ cho Quốc gia mới phát triển, giúp cho hàng tỉ người được tiêm chủng phòng ngừa, giờ tất cả nhân loại đang sống chung với Virus Corona, ai ai cũng nên tuân thủ việc bịt khẩu trang vì chúng ta hãy hiểu rằng: “Bịt khẩu trang, sẽ dễ chịu hơn nhiều, khi mang theo máy thở”.
    19/09/2021(Xem: 8942)
    Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27/02/1917 tại Hà Nội. Mất ngày 12/9/1986, tại Minnesota, Hoa Kỳ. Học sinh trường Bưởi; Lên đại học, theo ngành y khoa hai năm, trước khi vào trường Cao Đẳng Canh Nông. Tốt nghiệp, làm kỹ sư canh nông được một năm rồi chuyển hẳn sang dạy lịch sử tại hai trường Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà Nội và hoạt động kịch nghệ, viết văn, thành lập nhóm Quan Điểm với Nghiêm Xuân Hồng. Từ 1948 Vũ Khắc Khoan bắt đầu in bài trên báo Phổ Thông: hai vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948) và Giao thừa (1949) và bài tùy bút Mơ Hương Cảng (1953).
    facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
    Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
    nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

    May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
    Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
    may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
    the Land of Ultimate Bliss.

    Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
    Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
    Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
    Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
    Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
    Website: http://www.quangduc.com
    http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
    Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
    [email protected]