Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lịch Sử Đức Phật Thích Ca

24/01/201213:00(Xem: 16088)
Lịch Sử Đức Phật Thích Ca
LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA
HT Thích Minh Châu soạn


lichsuducphatthichca_htminhchau

Mục Lục

Lời Nói Đầu

1. Thái tử Tất Đạt Đa Ra Đời

2. Đạo sĩ A Tư Đà Và Thái tử

3. Cuộc Sống Của Thái Tử Trong Thời Niên Thiếu

4. Quyết Tâm Xuất Gia Tầm Đạo

5. Sự Từ Bỏ Vĩ Đại

6. Đến Học Hai Đạo Sĩ Alara Kalama Và Uddaka Ramaputta

7. Tu Khổ Hạnh Sáu Năm

8. Chứng Ngộ Chân lý Tối Hậu

9. Đức Phật Do Dự Trước Khi Chuyển Bánh Xe Pháp

10. Đức Phật Giảng Pháp Đầu Tiên Tại Vườn Nai, Gần Thành Ba La Nại (Benares)

11. Nội Dung Kinh Chuyển Bánh Xe Pháp

12. Đức Phật Giác Ngộ Cho Yasa Và Những Người Bạn Của Yasa

13. Đoàn Tăng Sĩ Thuyết Pháp Đầu Tiên

14. Giác ngộ Cho Ba Mươi Thanh Niên

15. Ba Anh Em Ông Kassapa (Ca Diếp) Được Giác ngộ

16. Sariputta (Xá Lợi Phất) Và Moggalana (Mục Kiền Liên) Trở Thành Hai Đệ Tử Hàng Đầu Của Đức Phật

17. Đức Phật Về Thăm Gia Đình

18. Đức Phật Và Phụ Vương Suddhodana

19. Đức Phật Và Công chúa Yasodhara (Da Du Đà La)

20. Đức Phật Và Rahula (La Hầu La)

21. Đức Phật Và Bà Dì Mẫu Pajapati Gotami (Ma Ha Ba Xà Ba Đề)

22. Đức Phật Và Tôn giả Ananda

23. Đức Phật Và Devadatta (Đề Bà Đạt Đa)

24. Đức Phật Và Trưởng Giả Cấp Cô Độc (Anàthapindika)

25. Sự Nghiệp Giáo Hóa Và Thuyết Pháp Của Đức Phật – Tục Lệ An cư Kiết Hạ

26. Đức Phật Và Vua Pasenadi Xứ Kosala

27. Đức Phật Và Nữ Thí Chủ Visakha

28. Đức Phật Và Vua Bimbisara

29. Đức Phật Và Tướng Cướp Angulimala

30. Đức Phật Và Kỹ Nữ Ambapali

31. Đức Phật Tuyên Bố Sẽ Nhập Niết Bàn

32. Buổi Ăn Cuối Cùng Của Đức Phật

33. Cách Tốt Đẹp Nhất Để Tôn Trọng, Đảnh Lễ, Tán Thán, Quý Mến Như Lai

34. Bốn Địa Điểm Chiêm Bái

35. Đức Phật Hóa Độ Cho Người Cuối Cùng: Du Sĩ Subhadda

36. Những Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật

37. Lễ Trà Tỳ Và Sự Phân Chia Xá Lợi Của Phật (20)

Kết luận

Lời Nói Đầu

Lịchsử Đức Phật Thích Ca là lịch sử một con người, nhờ công phu tu tập bản thân, đã trở thành một con người hoàn thiện, một bậc Thánh giữa thế gian; “Con người vĩ đại nhất sinh ra ở đời này” nếu dùng lại lời của nhàthi hào Ấn Độ Tagore.

Bằngcuộc đời của Ngài, và bằng những lời dạy của Ngài được kế tập lại trongba tạng kinh điển, đức Phật đã khai thị cho loài Người biết rằng, bất cứ một người nào, với sự nỗ lực của bản thân, đều có thể vươn lên tới đỉnh cao nhất của Giác ngộ và Giải thoát, như chính đức Phật vậy.

Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con ngườivà đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật. Tính nhân bản tuyệt vời của đạo Phật chính là ở chỗ đó.

Tránhmọi điều ác, làm mọi điều lành, gội sạch nội tâm để trở thành bậc thánh, một con người hoàn thiện, về đức hạnh và Trí tuệ, mỗi người chúngta đều có khả năng và bổn phận thực hiện lời dạy đó, bức thông điệp đó mà đức Phật đã trao cho loài Người chúng ta, cho mỗi người chúng ta. Đó là ý nghĩa chân chính của nhân sinh, giá trị chân thực của cuộc sống. Không thể có ý nghĩa nhân sinh nào cao quý hơn, khích lệ hơn đối với cuộc sống của chúng ta hiện nay.

Chúngtôi từ lâu vẫn cho rằng đời sống của đức Phật Thích Ca, trong nét đại cương cũng như chi tiết, đều thể hiện và truyền đạt một cách vô cùng sinh động lời dạy đó của đức Phật. Tin tưởng ở đức Phật, đảnh lễ Ngài vàniệm danh hiệu Ngài, chủ yếu là để học tập Ngài về cả hai mặt đức hạnh và Trí tuệ, dù chỉ là trong muôn một. Người nào tuy ở xa Phật, nhưng sống có giới hạnh, theo lời Phật dạy, thì cũng như sống gần Phật. Người nào tuy sống bên cạnh Phật, nhưng sống không có giới hạnh, thì cũng không khác gì ở cách xa Phật muôn trùng.

Nhữngngười Phật tử Việt Nam chúng ta, tuy sống cách thời đức Phật 2.500 năm,nhưng hãy giữ vững niềm tin rằng chúng ta vẫn sống bên cạnh đức Phật nếu chúng ta sống có giới hạnh, theo đúng lời dạy trong con đường đạo tám nhánh (Bát chánh đạo).

Sốngtrong vũ trụ này, được làm người là chuyện khó. Đức Phật nói rằng được làm người khó như một con rùa chột mắt, cứ mỗi trăm năm mới ngóc đầu lênkhỏi mặt biển một lần, và tìm cách chui đầu vào lỗ nhỏ của một khúc gỗ trôi lềnh bềnh trên mặt nước, bị gió Đông, gió Tây, gió Nam, gió Bắc thổi trôi dạt hết phương này đến phương khác. Được làm người cũng khó như con rùa chột mắt đó muốn chui qua được lỗ nhỏ của khúc gỗ như thế. Trong kinh Tương Ưng V, đức Phật đã dạy: “Ví như, này các Tỳ kheo, một người quăng một khúc gỗ có một lỗ hổng vào biển lớn. Tại đấy có con rùa mù, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần. Các người nghĩ thế nào, này các Tỳkheo. Con rùa ấy, sau mỗi trăm năm, nổi lên một lần, có thể chui cổ vàokhúc cây có một lỗ hổng hay không?”.

- “Năm khi mười họa may ra có thể được, bạch Thế Tôn, sau một thời gian dài”.

- “Ta tuyên bố rằng còn mau hơn, này các Tỳ kheo, là con rùa mù ấy, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần, có thể chui cổ vào khúc gỗ có lỗ hổng ấy. Còn hơn kẻ ngu, khi một lần đã rơi vào đọa xứ, để được làm người trở lại. Vì cớ sao? Vì rằng ở đấy không có pháp hành, chánh hành, thiện nghiệp, phước nghiệp. Ở đấy, này các Tỳ kheo, chỉ có ăn thịt lẫn nhau, và chỉ có kẻ yếu bị ăn thịt...” (Tương Ưng V, 485).

“Thậtkhó được vậy, này các Tỳ kheo. Là được làm người. Thật khó được vậy. này các Tỳ kheo, là được Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A la hán, Chánh đẳng giác, thật khó được vậy, này các Tỳ kheo, là Pháp và Luật này do Thế Tôn thuyết giảng, chiếu sáng trên đời...” (Tương Ưng V, 459 - 460).

ĐứcPhật xuất hiện ở đời cũng là chuyện khó như thế. Pháp và Luật được đức Phật truyền bá ở đời cũng là chuyện khó như thế. Chúng ta có ba cái may mắn hiếm có là được sống làm người, được biết đức Phật Thích Ca và pháp,luật do đức Phật dạy, ấy thế mà chúng ta không biết tranh thủ tối đa bacái may mắn đó hay sao? Chúng ta lại có thể sống không giới hạnh, trái với lời Phật dạy, để rồi bị nghiệp ác lôi cuốn vào những cõi sống khác thấp hơn, khổ hơn cõi người, và cuối cùng phải phấn đấu trở lại làm người như con rùa chột mắt trong câu chuyện ví dụ của đức Phật hay sao?

Rấtmong quý vị Phật tử suy ngẫm về bài học của lịch sử đức Phật, về ảnh dụcon rùa chột mắt chơi vơi trên đại dương, về ý nghĩa của nhân sinh, về giá trị chân thật của cuộc sống, về cuộc sống hiện thực hiện nay cả mỗi chúng ta, làm sao để cho cuộc sống đó thực sự an lạc, hướng thượng, lợi cho mình, lợi cho người, lợi cho đời, lợi cho Đạo.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Tỳ kheo Thích Minh Châu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 17687)
Trong cuộc sống bon chen vật chất hiện nay, hầu như ai ai cũng nhìn nhận phương pháp Thiền của Phật giáo có khả năng diệt trừ bức xúc và mang đến sự an tịnh trong tâm hồn. Nhưng phần đông người học Thiền chỉ biết sơ qua về cách ngồi kiết già, bán già, sổ tức và tùy tức, chứ người đạt được Sơ thiền thì rất hiếm hoi, vì phần đông chưa biết cách đoạn trừ năm triền cái và cách thực hành năm thiền chi để làm nền tảng cho thiền tập.
02/03/2013(Xem: 2018)
Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ cái đầu con voi, họ nói như sau: "Thưa Đại vương, con voi là như thế này, như cái ghè!" Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ cái tai con voi, họ nói như sau: "Thưa Đại vương, con voi là như thế này, như cái rổ sàng gạo." Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ cái ngà con voi, họ nói như sau: "Thưa Đại vương, con voi là như thế này, như cái lưỡi cày." Này các Tỷ-kheo, những ai được sờ cái vòi con voi, họ nói như sau: "Thưa Đại vương, con voi là như thế này, như cái cày".
18/01/2013(Xem: 11814)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn -
19/07/2012(Xem: 1783)
1-Đức Phật đã chỉ dạy cho mọi người giáo pháp mang ý nghĩa giá trị và thực tiển theo nguyên lý duyên sinh, nhân quả mà không phải là một giáo điều cứng ngắt. 2-Đức Phật đã chỉ cho mọi người sự hiểu biết chân chính, để không rơi vào vòng si mê tội lỗi mà còn thương yêu bình đẳng mọi người bằng trái tim có hiểu biết. 3-Đức Phật đã chỉ cho mọi người giáo pháp đến để mà thấy, nhằm phát huy tuệ giác của Như Lai mà ban vui cứu khổ không làm tổn hại muôn loài vật. 4-Đức Phật đã chỉ cho mọi người biết cách làm chủ bản thân nhờ thường xuyên kiểm soát thân, miệng, ý thay vì tin có một đấng thần linh thượng đế ban phước giáng họa.
19/06/2012(Xem: 6557)
Những khi mà tâm hồn tôi bị hoang mang và dao động trước những thống khổ của con người do chính con người gây ra, những lúc đó tự nhiên những câu thơ của Bùi Giáng, những câu thơ mà một thời tôi đã từng say sưa đọc lại có dịp sống dậy trong tâm hồn buồn bã của tôi:
18/06/2012(Xem: 4570)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Bấy giờ có một Phạm Thiên Vương ở cõi Trời Phạm, nghĩ rằng: “Chỗ này là thường hữu, chỗ này là thường hằng, chỗ này trường tồn, chỗ này quan yếu, chỗ này là pháp không hoại diệt, chỗ này là xuất yếu, ngoài xuất yếu này không còn xuất yếu nào khác nữa, mà có bậc tối thắng, tối diệu, tối thượng”.
19/05/2012(Xem: 4834)
Phạn ngữ "Buddha" (Phật) có nghĩa là hoàn toàn giác ngộ. Phật là hồng danh của Ðức Bồ Tát CỒ ÐÀM SĨ ÐẠT TA (Siddhatta Gotama) khi Ngài thành đạo. Giáo lý của Ðức Phật truyền dạy gọi là Phật Giáo.
01/05/2012(Xem: 6551)
Ngày Phật đản là ngày cho toàn thể tăng tín đồ cùng hướng về đức Bổn sư Thích ca Mâu ni để tổ chức lễ hội, tư duy, thiền quán... Đặc biệt năm nay, Giáo hội tổ chức Lễ Hội Phật Đản Quốc Tế với sự tham gia của các cộng đồng Phật giáo tại Hoa Kỳ. Sự kiện này nói lên đà phát triển của Đạo Phật trên đất nước đa sắc tộc, tín ngưỡng và văn hóa. Trải qua nhiều thập niên, những người di dân mang tín ngưỡng Phật giáo đã nỗ lực và cống hiến những gì có thể mang đến cho cư dân Hoa Kỳ về hiểu biết, hành thiền và sự sống an lạc từ giáo pháp của Như Lai.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567