Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Tri Kiến Phật

19/11/201705:52(Xem: 19204)
Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Tri Kiến Phật



Duc The Ton 5
KHAI THỊ CHÚNG SANH
NGỘ NHẬP TRI KIẾN PHẬT

Đức Hạnh


Trong kinh Pháp Hoa, phẩm phương tiện, Đức Phật nói lời khẳng định với Bồ Tát Xá Lợi Phất : “Này Xá Lợi Phất, chư Phật chỉ vì một việc trọng đại lớn duy nhất mà thị hiện ra nơi đời (cõi người), đó là “khai thị chúng sanh, ngộ nhập tri kiến Phật”.

   Khai, nghĩa là mở ra. Thị là thấy. Nói cho đủ mở ra để thấy. Mở cái gì, để thấy cái gì ? Toàn bộ câu trên, có nghĩa là mở cái tâm chúng sanh ra (khai thị chúng sanh), để cho chúng sanh thấy Phật (tri kiến Phật). Như vậy, Phật nào mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni khai tâm chúng sanh, để chúng sanh được thấy ? Nói về thực tại khi Phật còn tại thế, thì chúng sanh (Phật tử) thấy Phật ngay trước mặt lúc bấy giờ đang ngồi thuyết pháp tại các đạo tràng Linh Thứu, núi Kỳ Quật, Tinh Xá Kỳ Viên, Xá Vệ hay đến thăm, hầu chuyện với Phật ở đâu đó cách đây 26 thế kỷ. Nguyên lý thấy Phật là như vậy nhưng, mai này Phật nhập Niết bàn còn đâu nữa để mà thấy? Vẫn thấy chứ; thấy trên bàn thờ, đó là Phật tượng bằng đá, gỗ, giấy, đồng có phải không ? Xin nói rằng; các pho tượng Phật trên bàn, chỉ là biểu tượng, được xem như Phật đang còn để cho ta đem tâm ngưỡng vọng lên đó mà lễ bái, cúng dường.

   Nói đến biểu tượng Phật đang còn hiện hữu, được chứng minh qua sự tích sau đây. Khi Phật lên cung Trời Đao Lợi (cõi dục giới **) thăm thân mẫu là bà Hoàng hậu MA GIA. Trước khi Phật chuẩn bị chia tay thân mẫu và hằng trăm ngàn Thiên nam, Thiên nữ. Thì  tất cả Thiên nam, Thiên nữ đến trước phật, chấp tay lễ bái, có lời hỏi Phật : “Bạch Đức Thế Tôn. Thế Tôn về lại Ta bà rồi, chúng con trên Đao Lợi này, đâu còn có Phật ở đây nữa, để mà lễ bái, cúng dường ?

   Phật im lặng trong giây lát, sau đó Phật nói : “ Bằng hình tượng. Thời gian đến, Tôn giả Mục Kiền Liên sẽ lên đây lo liệu cho việc ấy”. Thế là, sau khi Phật về lại cõi Ta bà, chẳng bao lâu; Tôn giả Mục Kiền Liên tuân theo lời Phật dạy bảo, dẫn theo 32 người thợ chuyên nghề đắp tượng lên cung Trời Đao Lợi thực hiện công việc đắp tượng. Mỗi người thợ lo về mắt, tai, mũi, môi, cằm, cổ, tay, chân…ở nơi tượng của Phật rất có kỹ thuật đúng theo 32 tướng tốt của Phật.

  Vấn đề thấy Phật bằng cách thờ phượng tượng Phật tại cung Trời Đao Lợi  khi Phật còn tại thế và hôm nay không còn Phật tại cõi người, nếu không nói rằng; là chỉ để cung dưỡng (cúng dường) cho tâm các giới Phật tử được vững mạnh mà thôi; chứ chưa đúng ý của Đức Thích Tôn Mâu Ni ngày xưa mong muốn chúng sanh (Phật tử) trong thời đại ngày nay, thời không có Phật nhưng, chúng sanh vẫn thấy và phải thấy Phật (tri kiến Phật). Phật, mà Đức Thích Ca Mâu Ni mong muốn chúng sanh phải thấy, đó là Phật trong tâm, tức là Phật tánh, tánh thường hằng thanh tịnh, trong sáng vĩnh cửu muôn đời, chứ không phải hình tượng trên bàn. Phật trong tâm; tâm có Phật, Phật tức tâm là tâm thường hằng rỗng lặng, là đạo cảm thông với chư Phật trong mười phương, đúng như kinh văn “Phật, chúng sanh tâm thường rỗng lặng; đạo cảm thông không thể nghĩ bàn”. Phật muốn chúng sanh phải thấy Phật tánh trong tâm mình, mới là quan trọng, vì đó là con đường giải thoát sinh tử, mà tâm con người phải luôn thường hằng trống rỗng, thanh tịnh, vắng lặng, không còn những phiền não, vô minh, ô trược…nữa, là năng lực làm cho Phật tánh bừng dậy, vươn cao lên, như mầm sen kia từ trong bùn dưới ao nước  ló ra, nở hoa, vươn lên khỏi mặt nước, đó là Phật tánh được hiển lộ, nếu không nói là tánh không, tâm trống không, thường rỗng lặng, thanh tịnh muôn đời. Phật, chúng sanh ngày nay phải thấy là chỗ đó, tức là nơi tâm mình (Tự quy y Phật) không phải Phật trên bàn thờ.

  Như vậy làm cách nào để cho Phật tánh trong tâm hiển lộ và tồn tại muôn đời ? Những cách sau đây để làm cho Phật tánh được hiển lộ.  Trước hết, người phật tử phải đem tâm tư duy và nhận thức rằng; con đường giải thoát sinh tử, luân hồi, về cõi phật là cái tâm thường hằng trống rỗng, thanh tịnh trong sáng, không còn mọi thứ phiền não, ô trược nữa. Nói như lời kinh Niết bàn : Cửa Niết bàn là cửa Không. Nếu ai muốn vào, cái tâm cũng phải trống không như Niết bàn; nếu còn Có mọi ý niệm về Ngã nhân, ngã sở, ngã kiến, tham, sân, si… Thì không thể vào được cõi Niết bàn. Thứ đến, sau khi nhận thức người Phật tử phải học Phật pháp. Theo tinh thần học Phật, là học sao cho đủ, để cái tâm mình thấy được các Lý nói về sự tác hại không lường của những thứ tâm : tham lam dục vọng, sân hận hung hãn sát hại, si mê cuồn tín, nhân ngã ta đây, ngã kiến (thấy ta hơn hết), ngã sở (nhà ta to lớn, con ta tiến sĩ, chức quyền ta không ai bằng v.v…, Mà con người đang có trong đó có ta. Thấy tác hại về bản thân thực tại bị tật bịnh về tim, cơ thể; bị thiên hạ khinh khi, nguyền rủa, thân bại, danh liệt... Tác hại về  sau, khi bản thân chết đi, thần thức sẽ bị thác sinh vào các địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

  Sau khi học phật, thấy được những tác hại trên. Liền quyết tâm chuyên lo tu tập thiền định để cho bản thân được an bình, thư thái, và thực hành theo lời Phật dạy là KHÔNG còn các thứ Tâm  tham lam, sân hận, si mê, dừng lại hành động sát hại, tiêu trừ các thứ dục vọng, bỏ lời đố kị kẻ khác, luôn ăn hiền, ở lành, làm những việc phước thiện, giữ tâm hồn luôn thanh tịnh, ăn uống điều độ, sống đời an bình lạc đạo. Qua đây cho ta thấy rằng; đạo Phật, không những là đạo giải thoát, mà còn là cái đạo để sống. Sống hòa bình, hòa ái, không gây chiến tranh, đạo đức, vị tha, luôn thương người, thương mọi loài súc sinh,  không đố kị, không áp bức người cô thế, không gây khổ đau cho bất cứ ai, v.v…

  Một số đạo lý vừa nói trên, cũng thuộc về đạo LÝ thấy Phật, khiến cho con người quyết tâm hành trì thiền định, niệm Phật qua thời gian làm cho tâm an trú ở góc độ thường hằng trống rỗng, gọi là nhất tâm bất loạn, tâm tri kiến Phật (thấy Phật), do Phật đã khai ngộ cho chúng sanh bằng pháp môn thiền định, tịnh độ.  Nếu nói rằng đã đủ và đúng với cụm từ trên “Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Tri Kiến Phật” (tu là chuyển nghiệp). Ngược lại chưa đủ, thì qua những giảng luận sau đây sẽ đúng cách, đúng ý mà Phật nói với Tôn giả Xá Lợi Phất trong kinh Phẩm Phương tiện.

  Để cho đúng với ý của Phật và ý nghĩa của cụm từ trên, ta đi qua ý nghĩa của các từ đơn, kép:Khai Thị, Chúng Sanh, Ngộ, Nhập, Tri Kiến, Phật.  Khai thị đã nói rồi ở trên; tuy nhiên nói lại cũng không dư. Ta thường nghe, thấy “Trung Tâm Thính Thị”  tại các trường trung học, một khi các giáo sư giảng, nói về vạn vât, đều có hình đi đôi với lời giảng. Cũng như các giáo sư dạy sinh ngữ Anh Văn, khi thực tập cho học sinh đọc, không nhìn bài, chỉ nhìn lên những tấm hình. Nếu học mà không có hình, khó hiểu bài, cho nên đời có “Trăm tai nghe không bằng mắt thấy”. Vì thế cho nên Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni đã đưa ra phương pháp “quán chiếu”; sử dụng mắt nhìn vào các pháp thực tại một các sâu sắc sau khi nghe Phật (ngày xưa, chư Tăng ngày nay) giảng về các đạo lý Vô thường, Vô ngã, duyên sinh, nhân quả v.v…Đưa mắt quán chiếu sâu vào gọi đó là “Nhập”. Sau khi quán chiếu, quán niệm, tâm và mắt hành giả đã thấy được định luật vô thường qua một vài sự vật đang trên đà hư hoại, mục nát, cũ, già,  như thân người đang trẻ trung thình lình bị bịnh rồi chết, cây hoa hồng tự nhiên héo, chết…Gọi là sát na vô thường, nhanh hơn cái nháy mắt. Sự vật và con người luôn bị con Mọt vô thường chi phối bản thể như vậy, là do Vô ngã. Như để tự nhắc nhở mình, có những vị sư bên Nhật, Tây Tạng thỉnh thoảng ra nghĩa địa thiền tọa quán chiếu vào những ngôi mộ, để thấy đời người sống trong vô thường.

   Để hiểu thấu đạo lý Vô ngã các hành giả học phải nhìn vào (Nhập) vô số bản thể vạn hữu cỏ cây, sông, núi, muôn loài vật và con người. Rồi dùng tâm quán thấy tất cả đều không tự thể. Nghĩa là không tự có thân, mà là do vô số các duyên giả hợp kết lại, gọi là vay mượn mà thành thân. Nói theo định lý Duyên Khởi : “Thực tướng của các pháp là vô ngã, không tự thể”.

   Vô ngã là con đường giải thoát mà Phật chủ trương đối với đệ tử Phật hai giới  xuất gia, tại gia là phải ngồi xuống trong tư thế thiền tọa đem tâm quán chiếu ngay bản thể của mình, là không do mình, mà là do vô số các duyên; trước hết là tinh cha, huyết mẹ kết hợp mà có bản thân mình, cùng với các thứ, nào là không khí cho mình thở, những món ăn, thức uống tốt, quần, áo v.v…từ lúc còn trong bụng mẹ và sau khi chào đời, lớn lên giữa xã hội, sống bằng hằng ngàn cái duyên bên ngoài trợ giúp cho bản thân mình. Bản thể của vạn hữu chúng sanh vô tình và hữu tình, tất cả đều do vô số các duyên giả tạo nên. Sau khi các duyên tan rã, thì bản thể chết đi không còn nữa; bản thân vật chất tan rã thành cát bụi, trở về cát bụi.Nếu không nói đây là NGỘ, tức là thấy do qua quá trình Nhập, Nhập trước, Ngộ sau. Có Nhập, mới có Ngộ, có Thấy. Ngộ đạo lý vô ngã, tức thấy mọi bản thể hữu tình, vô tình chúng sanh trên Trái đất, tất cả không tự có thân, mà do hằng ngàn nhân duyên giả hợp kết tụ lại mới thành. Như chiếc xe  hơi, không thể tự nó có, mà phải do hằng ngàn thứ (nhân duyên); nào là bánh cao su, đèn, bình điện, giây điên, kính, nước, v.v… kết tụ lại mới thành chiếc xe. Bỏ hết các thứ ra, không còn chiếc xe. Như cây dưa, hạt dưa bỏ vào đất, nhờ có các duyên : nước, không khí, nắng ấm, tay người chăm sóc, cây dưa phát triển, ra trái.

   Phật tử chúng ta đang sống mà đã ngộ được chân lý vô ngã của vạn hữu, trong đó có ta, do học Phật và đem tâm quán chiếu, Nhập vào mọi bản thể vạn hữu, mà được tỏ Ngộ đạo lý vô ngã trên. Nếu không nói rằng; tâm ta đã giác ngộ, do vì  những gì mà xưa kia ta đã thấy cho là đúng, nay nhìn lại, thấy lại, hoàn toàn sai, không đúng. Giác ngộ là như vậy; tức là đem tâm nhận thức ngược lại những gì trước đây ta đã nhận thức, như  đã cho rằng; không có địa ngục, ngạ quỷ, không có Trời, thần thánh, tiên, Phật nào cả, tội phước gì hết, chết là hết. Nhờ học phật mà tâm hết si mê, nay được ngộ (chuyển mê khai ngộ), thấy lại như thấy cái nhân giết người cướp của, là phải bị trả quả báo làm kiếp ngạ quỷ trong các địa ngục hay súc sinh theo định luật nhân quả.

   Nền tảng đưa tâm con người được giác ngộ, là phải hoài nghi. Nghi ít giác ngộ ít hay chậm. Hoài nghi nhiều giác ngộ mau và nhiều. Phải hoài nghi thì mới được, bằng không thì cái nhìn quen thuộc nhị nguyên của lý trí cũ, xưa. Giác ngộ là phá bỏ mọi tư tưởng cố hữu, tập quán, thành kiến bao đời trong ốc đảo hãy bỏ thói quen bám theo tư tưởng của kẻ khác. Hãy tự nhận diện vào vạn hữu; từ đó, ta có tư tưởng chân thật của ta về duyên sinh, duyên diệt, chứ không do đấng tạo hóa nào tạo nên.

    Sau khi tâm đã giác ngộ, thấy được vạn hữu và nhân loại trên Trái đất này trong đó bản thân ta luôn bị định luật vô thường chi phối hao mòn qua từng sát na, do vô ngã, không tự thể; tất cả đều do vô số nhân duyên kết tụ lại mà thành bản thể, cho nên đang trên đà hoại, cuối cùng bị tan rã hết không còn, thành tro bụi theo gió bay đi đó đây. Tâm của hành giả qua quá trình tu tập và quán chiếu sâu vào (NHẬP) các bản thể vạn hữu, được thấy (NGỘ). Đích thực đây là tri kiến Phật,hành giả được thấy Phật rồi, Phật là tâm vô ngã, tâm thường rỗng lặng là Phật, tánh không là Phật, tâm không còn vô minh ác trược nữa, tâm đó là Phật; cho nên mới nói đạo Phật là CỬA KHÔNG. Phật, người giác ngộ. Hành giả tu tập ngày nay đã ngộ, đã thấy Phật qua đạo lý : Thực tướng các pháp là vô ngã, thật đúng như lời Phật nói “Chúng sanh là Phật sẽ thành”. Trong vô lượng kiếp, tiền thân Phật Thích Ca khi làm người tại cõ Ta bà, trên bước đường vừa mưu sinh, vừa tu tập; tu tập ngay ra giữa dòng đời bằng cách đem tâm thường hằng quán chiếu vào (Nhập) mọi bản thể vạn hữu, cho nên Phật đã Ngộ được lý : “Thực tướng của các Pháp là vô ngã” Nếu không nói rằng; Phật đã thành Phật tại cõi người trong vô lượng kiếp về trước. Do đó Phật đã nói : “Ta là Phật đã thành”. Với các bậc đã giác ngộ rồi, là phải giác tha, một quy luật, do tâm có đại trí, năng lực sinh ra đại bi, thương chúng sanh, cho nên Đức Phật Thich Ca mới thị hiện vào cõi người, để hướng dẫn chúng sanh tu tập Phật pháp bằng phương pháp thiền tọa, quán chiếu vào (Nhập) mọi bản thể vạn hữu để thấy (Ngộ) tất cả đều vô ngã không tự thể, do các duyên giả hợp kết tụ lại mà thành, khi các duyên ra đi, thì bản thể cũng theo đó mà tan rã thành cát bụi. Tâm hành giả một khi đã giác ngộ đạo lý vô ngã, nếu không nói, đã thành Phật ngay thực tại qua quá trình quán chiếu được giác ngộ thành Phật đúng như lời Phật đã khẳng định : “Chúng sanh là Phật sẽ thành” Nếu không thành Phật bằng phương pháp quán chiếu để thấy thực tướng các pháp là Vô ngã, thì Phật đâu có nói : “Vì đại sự nhân duyên, mà Phật xuất hiện nơi đời cách đây 26 thế kỷ làm chi. Được thành Phật theo phương pháp quán chiếu vào mọi sự việc, cho nên Phật căn dặn Phật tử rằng : “Làm công việc từ thiện dù nhỏ hay lớn, đều phải xây dựng trên tinh thần Vô ngã”. Do vì vô ngã, hay nói khác hơn “tâm vô ngã là Phật”. Con người có tâm vô ngã thì không còn khởi tâm kiến chấp. Điều này được Phật nói lời khẳng định trước các vị Tỳ Kheo : “Này các Thầy Tỳ Kheo, Ta nói rằng sự phá trừ kiến chấp, là việc của người đã hiểu và đã thấy; chứ không phải việc của người không hiểu và không thấy”. Nếu không nói rằng; lời Phật nói trên trước chư vị Tỳ kheo khi Phật còn tại thế, là nhắm vào   giới xuất gia ở tương lai, sẽ có vị đã phá trừ kiến chấp, có vị chưa phá trừ kiến chấp. Bởi vì tất cả giáo pháp mà Phật thuyết trong thời Phật còn tại thế đều nhắm vào các giới đệ tử Phật ở hậu lai, ở đâu cũng được ân triêm lợi lạc cả. Nếu ai chưa vô ngã, mà đọc lời Phật nói trên, ắt hẳn quyết tu tập theo phương pháp Phật đã đưa ra : “ khai Thị Chúng Sanh, Ngộ Nhập Tri kiến Phật”. Vì thế Phật đặt vị trí của các Thầy Tỳ Kheo, ai cũng ở ngôi vị thành Phật cả rồi, do đã thấy các pháp là vô ngã, thì không còn mọi ý niệm kiến chấp nữa. Bởi vì mục tiêu của các hành giả quay về đạo, là tìm cho mình con đường giải thoát sanh tử luân hồi, mà phương tiện chính, là tâm vô ngã, trống rỗng, không có tâm nào khác hơn. Dù cho tu tập giáo pháp nào đi nữa (Tịnh độ, mật tông, thiền định…) vẫn xây dựng tâm trên dòng sóng vô ngã. Tâm của Tịnh độ là “ Tâm bất điên đảo tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực quốc độ”. Thiền tông thì tâm buông xả hết (đối cảnh vô tâm). Mật tông thì tâm luôn an trú trên dòng sóng tịnh. Nói chung, tu tập phật pháp ở bất cứ pháp môn nào, tâm của hành giả đều vô ngã. Các trạng thái buông xả, an trú dòng sóng tịnh, tâm không điên đảo, cũng đều ở nghĩa vô ngã. Nếu hành giả trên vận tu tập cho mục đích đạt tâm vô ngã, mà có phát tâm bố thí kẻ nghèo, cúng dường Tam bảo bằng nhiều cách xây chùa, tạo tượng, in kinh sách hay là  giữ chức vụ nào đó trong các chùa. Tất cả được phước báo. Phước báo này, như những viên gạch được xây chung quanh cái đài sen trong tâm của quý vị cho vững chắc, để bảo vệ đức Phật trong tâm quý vị đang có (tự quy y Phật). Đức Phật trong tâm quý vị, đó là tâm vô ngã.

    Đích thực, tâm con người không còn mọi ý niệm về ngã, người ấy là Phật, đời sống luôn an trú trên dòng sóng yểm ly, nếu không nói là chán ghét mọi thứ dục tình ngoan cố, hết học đòi các thói ăn chơi, chú tâm vào ăn hiền ở lành, xa lánh các ác nghiệp, chăm lo công việc từ thiện, giữ tâm hồn luôn thanh tịnh. Con đường giải thoát trong đạo Phật là Tâm Vô ngã, cho nên đạo phật là đạo vô ngã, Vô ngã là Niết Bàn. Tâm chưa vô ngã là chưa Phật thừa.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2016(Xem: 4286)
Bài viết này sẽ trình bày rằng Thiền Tông là pháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy. Nói nguyên thủy, vì Thiền Tông chính từ lời Đức Phật dạy. Nói cốt tủy, vì nhiều cách an tâm trong Thiền Tông là từ các kinh, khi chư tăng cao niên xin dạy pháp ngắn gọn để sẽ lui về một góc rừng ngồi trọn đời cho tới khi giải thoát. Bài viết này sẽ sắp xếp các lý luận sao cho thực dụng, có lợi cho tất cả những người quan tâm và muốn bước vào Thiền Tông. Tính thực dụng trong cách an tâm sẽ trình bày cụ thể, trong mức có thể được. Bản thân người viết tự xét sở học bất toàn, nên sẽ tránh ý riêng tối đa, để chủ yếu dựa vào các kinh Pali phổ biến, có sẵn với các bản Anh văn trên mạng.
24/12/2015(Xem: 4405)
Mỗi người khi sinh ra cũng chỉ với hai bàn tay trắng, rồi tùy theo phước báo và nghiệp lực gieo tạo, mà được trưởng thành trong ấm êm, đầy đủ, vinh danh, hay kiêu mạn, mặc sức thụ hưởng, hoang phí, làm việc thất đức để phải chịu cảnh bần cùng, đọa đày, khổ cực. “Tất cà chúng sanh đều có Phật tánh” kia mà ? Ai ràng buộc chúng ta mà phải cần giải thoát ? tất cả cũng đều do ta gieo tạo, rồi tự thọ nhận lấy quả báo mà thôi! Đời là khổ và con người vì “chấp ngã” tự ràng buộc mình
23/12/2015(Xem: 7904)
Phước báu hay phước đức là quan niệm đặc thù của Đông Phương. Đối với Tây Phương thì chỉ có gia tài, sự nghiệp, di sản để lại cho con cháu chứ không có chuyện phước báu hay phước đức. Quan niệm “phước báu hay phước đức” đã trở thành gần như đời sống tâm linh, gắn chặt với lối suy nghĩ và cuộc sống của con người Việt Nam và Trung Hoa. Người Việt Nam ta ai cũng mong cầu phước đức, lo vun trồng phước đức và rất sợ vô phúc.
19/12/2015(Xem: 4881)
Tâm giác ngộ là lẽ thật thiết yếu, phổ quát. Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng. Bồ tát thấy tính bản nhiên như pha lê này hiện hữu trong tất cả chúng ta, và bằng việc nhận ra sự tuyệt đẹp của năng lực con người chúng ta, đã luôn luôn có sự tôn trọng.
29/11/2015(Xem: 4511)
Các thanh niên dòng Da Xá trông thấy tướng hảo giải thoát của các vị Thánh này, nên đã phát tâm xuất gia. Cha mẹ và vợ con của các thanh niên Da Xá tìm đến Lộc Uyển thấy hào quang của Đức Phật và đại chúng trang nghiêm cũng phát tâm quy y Tam bảo. Từ đó, Phật giáo có mặt ở Ấn Độ và trải qua suốt thời gian dài hơn 2500 năm, Phật giáo đã được truyền bá từ nước này sang nước khác, có lúc thạnh, lúc suy. Tìm hiểu nguyên nhân nào làm Phật pháp hưng thạnh, hay suy đồi, để chúng ta giữ gìn và phát triển được đạo pháp.
28/11/2015(Xem: 5314)
“Nếu có Tỳ-kheo nào không tàm không quý thì làm tổn hại ái và kỉnh. Nếu không có ái và kỉnh thì làm tổn hại tín. Nếu không có tín thì làm tổn hại chánh tư duy. Nếu không có chánh tư duy thì làm tổn hại chánh niệm chánh trí. Nếu không có chánh niệm chánh trí thì làm tổn hại gìn giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát thì làm tổn hại Niết-bàn. “Nếu Tỳ-kheo nào biết hổ thẹn thì có ái và kỉnh. Nếu có ái và kỉnh thì thường có tín. Nếu có tín thì thường có chánh tư duy. Nếu có chánh tư duy thì thường có chánh niệm chánh trí. Nếu có chánh niệm chánh trí thì thường giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu giải thoát thì liền được Niết-bàn.
28/09/2015(Xem: 5702)
Tất cả chúng ta hiện giờ có mặt ở đây không phải chỉ một lần, mà là vô số lần rồi. Con người bỏ thân này chưa phải là hết, mà còn lang thang không biết đến bao giờ. Vì vậy nhà Phật thường dùng từ “lang thang trong kiếp luân hồi”, cứ đi mãi không biết dừng nơi đâu? Đức Phật thấy được những nẻo đường của chúng sanh đến và đi nên Ngài mới nói “Thuyết luân hồi”.
26/09/2015(Xem: 5645)
Thật vậy, ngay sau khi thành đạo, Đức PHẬT đã tuyên bố “LỜI GIẢI CHO BÀI TOÁN KHỔ” của thế gian một cách rất ngắn gọn, giản dị, và rõ ràng; Chỉ như sự chửa bệnh của một ông Bác sĩ: "Nầy các tỳ kheo, bởi vì không thông hiểu, không thấu đạt Bốn Sự Thật Cao Quý mà ta cũng như quý vị từ lâu đã phải trãi qua nhiều kiếp luân hồi trong vòng sinh tử... Bằng cách thông hiểu, bằng cách thấu đạt 4 SỰ THẬT: 1) SỰ THẬT về KHỔ, 2) SỰ THẬT về NGUYÊN NHÂN của KHỔ 3) SỰ THẬT về NIẾT BÀN (lúc khổ tận diệt) 4) SỰ THẬT về CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN NIẾT BÀN lòng tham thủ về sinh hữu được đoạn tận, sự hỗ trợ để sinh hữu được phá hủy, và từ đó không còn khổ đau vì sinh tử nữa."
08/09/2015(Xem: 5100)
Công cuộc giáo hoá độ sanh của Đức Phật thành tựu viên mãn chính nhờ Ngài tu tập Tứ vô lượng tâm đạt đến vô lượng. Tứ vô lượng tâm là Bốn tâm vô lượng bao gồm: Từ vô lượng tâm, Bi vô lượng tâm, Hỷ vô lượng tâm và Xả vô lượng tâm. “Từ” nguyên văn là: “Từ năng dữ nhất thiết chúng sanh chi lạc”
01/09/2015(Xem: 3315)
Theo thông lệ vào mùa an cư, tôi có ít lời sách tấn chư Tăng Ni và nhắc nhở Phật tử nỗ lực tu học. Người xuất gia mang trọng trách dìu dắt Phật tử cho nên đường hướng phải nắm cho thật vững. Hiểu lờ mờ, thực hành không đến nơi đến chốn, hướng dẫn người khác lệch đường, công đức không có, lại trở thành tội. Phật tử cũng cần biết định hướng tu hành cho đúng đắn để đạt lợi lạc cho bản thân, gia đình và xã hội.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567