Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bần cùng và giàu có

19/02/201408:11(Xem: 5961)
Bần cùng và giàu có

phat_3

BẦN CÙNG VÀ GIÀU CÓ

Tác giả: Tinh Vân Đại Sư, Việt dịch: Thích Quảng Lâm


Bần cùng và giàu có là 2 danh từ nói về hai thân phận khác nhau. Phần lớn trong nhận thức của con người đều cho rằng: người nghèo cùng thì không có cái giàu có hiện hữu, và ngược lại, giàu có thì không có cái nghèo khổ hiện hữu. Kỳ thật không phải như vậy. Trên thế gian, sự nghèo giàu thật khó phân biệt. Người giàu vẫn có chỗ nghèo thiếu, và người nghèo khó vẫn có cái phú quý tàng ẩn. Nhan Hồi ở nơi đường cùng góc hẻm, nhà nát vách thưa, cơm ngày một chén chan với nước trong, nhưng trong lòng vẫn hết sức an lạc. Như vậy ai dám kết luận ông ta là người nghèo đây? Ngài Đại Ca Diếp tôn giả ở nơi đồi trọc suối cạn, ngoài ba tấm Cà sa, bình bát, cơm ngày 1 bữa ra, một vật lớn nhỏ nào cũng không có. Thế nhưng , ngài vẫn sống 1 cuộc đời tự tại giải thoát. Chúng ta ai dám nói tôn giả là người nghèo cùng.

Ngược lại mà thấy, người ở nhà cao cửa rộng, có kẻ hầu người hạ, cơm bưng nước rót, đi thì có kẻ đưa người đón, nhưng ngày ngày bị đồng tiền chế ngự tất bật, không chút thanh thản. Người đó đáng được gọi là người giàu có chăng? Người đó mặc dù đời sống vật chất đầy đủ, tiền kho bạc núi, không thiếu thứ gì, nhưng tâm lượng nhỏ nhoi, keo kiệt; 1 đồng cũng không dám bỏ ra. Lòng tham vô đáy khiến cho tâm trí người đó chỉ biết nghĩ tới gom góp, mà gom góp bao nhiêu cũng không thấy đủ. Bạn cho rằng đó là người giàu có chăng? Giữa hai hạng người trên, ai là thật sự giàu có và ai là người nghèo khổ? Từ đó mà suy ra, giàu nghèo không thể lấy tiền tài vật chất ra để đo lường.

Trên thế gian có người vật chất đầy đủ, nhưng họ luôn lấy công việc làm vui, lòng họ luôn vui vẻ rộng mở tấm lòng để giúp đỡ người khác. Người này về cuộc sống tinh thần, so cho cùng chẳng phải là bậc “Đại Phú Ông” sao? Ngược lại những người ngày đêm không ngừng mong cầu cuộc sống vật chất, chà đạp lên lợi ích của người khác. Phàm có chỗ được nào thì đều muốn tìm cách chiếm hữu làm của riêng mình, những ngừơi như vậy tâm linh nghèo cùng không bút mực nào tả xiết.

Kỳ thật, dựa trên quan điểm Phật giáo mà nhìn thì trên thế gian vốn không có người nào là tột cùng nghèo khó. Nếu chúng ta sống với tâm hồn vô tư, biết vận dụng thời gian vào những việc làm có ích, quảng kết thiện duyên, tất nhiên thời gian đó là thời gian hữu ích phú quý. Hoặc bạn biết khéo léo vận dụng ngôn từ chân thật thiện mỹ tán thán những chỗ tốt của người, cổ vũ khích lệ người khác làm việc tốt; tất nhiên bạn sẽ là người giàu có ngôn ngữ, phong phú âm thanh. Hoặc bạn biết lấy nụ cười chân thiện khiêm cung, hoan hỷ đối đãi với người, thì Tâm bạn đã sinh trưởng của báu vô giá. Hoặc bạn biết vận dụng sức lực mình đi giúp đỡ người, phục vụ quần chúng.Đó chẳng phải bạn đã có nguồn khí lực sung túc chân thật sao? Thế nên luận về sự giàu nghèo thì tâm tham không biết đủ, vĩnh viễn sẽ là người nghèo cùng. Vui làm việc thiện nghĩa không 1 tơ hào so đo tính toán hơn thiệt, vĩnh viễn là người giàu có.

Khi nói đến giàu có, thì không chỉ nhìn những cái giàu có nhất thời, mà phải nhìn cho ra cái tài phú trong suốt cả cuộc đời. Cũng không nên nhìn cái tài phú của 1 người, mà phải nhìn cái tài phú trong sự cộng hữu. Và nhất là không nên nhìn cái tài phú do sự vơ vét của người khác, mà cần phải nhìn xác thật sự vận dụng tài phú đó. Đồng thời cũng không nên nhìn cái tài phú trên hình tướng, mà cần phải nhìn cái tài phú vô tướng của nội tâm. Người chân thật có trí tuệ, có tâm từ bi, có chính tín, có tâm hoan hỷ, biết sống cuộc đời đạm bạc biết đủ với tâm tàm quý…Những đức tính ây, chính là nguồn tài phú vô giá của mỗi chúng ta. Trong kinh Kim Cương Đức Phật dạy rằng:

Mọi hành vô thường

Vạn pháp vô ngã

Sinh diệt diệt rồi

Tịch diệt là vui

Nếu chúng ta biết lấy bốn câu kệ trên mà vận dụng vào đời sống thường nhật, và đem quảng kết thiện duyên, giảng dạy, hướng dẫn người khác cùng tu tập chính pháp, thành tựu giác ngộ, giải thoát thì công đức pháp thí đó rộng lớn muôn vàn so với công đức bố thí tài vật mà thế gian cho là quý giá như vàng bạc, châu báu. Bởi thế, sự giàu có và nghèo khổ chúng ta nên quán sát như vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2016(Xem: 9079)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi? Này các Tỳ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi”.
11/02/2016(Xem: 4302)
Bài viết này sẽ trình bày rằng Thiền Tông là pháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy. Nói nguyên thủy, vì Thiền Tông chính từ lời Đức Phật dạy. Nói cốt tủy, vì nhiều cách an tâm trong Thiền Tông là từ các kinh, khi chư tăng cao niên xin dạy pháp ngắn gọn để sẽ lui về một góc rừng ngồi trọn đời cho tới khi giải thoát. Bài viết này sẽ sắp xếp các lý luận sao cho thực dụng, có lợi cho tất cả những người quan tâm và muốn bước vào Thiền Tông. Tính thực dụng trong cách an tâm sẽ trình bày cụ thể, trong mức có thể được. Bản thân người viết tự xét sở học bất toàn, nên sẽ tránh ý riêng tối đa, để chủ yếu dựa vào các kinh Pali phổ biến, có sẵn với các bản Anh văn trên mạng.
24/12/2015(Xem: 4419)
Mỗi người khi sinh ra cũng chỉ với hai bàn tay trắng, rồi tùy theo phước báo và nghiệp lực gieo tạo, mà được trưởng thành trong ấm êm, đầy đủ, vinh danh, hay kiêu mạn, mặc sức thụ hưởng, hoang phí, làm việc thất đức để phải chịu cảnh bần cùng, đọa đày, khổ cực. “Tất cà chúng sanh đều có Phật tánh” kia mà ? Ai ràng buộc chúng ta mà phải cần giải thoát ? tất cả cũng đều do ta gieo tạo, rồi tự thọ nhận lấy quả báo mà thôi! Đời là khổ và con người vì “chấp ngã” tự ràng buộc mình
23/12/2015(Xem: 7944)
Phước báu hay phước đức là quan niệm đặc thù của Đông Phương. Đối với Tây Phương thì chỉ có gia tài, sự nghiệp, di sản để lại cho con cháu chứ không có chuyện phước báu hay phước đức. Quan niệm “phước báu hay phước đức” đã trở thành gần như đời sống tâm linh, gắn chặt với lối suy nghĩ và cuộc sống của con người Việt Nam và Trung Hoa. Người Việt Nam ta ai cũng mong cầu phước đức, lo vun trồng phước đức và rất sợ vô phúc.
19/12/2015(Xem: 4898)
Tâm giác ngộ là lẽ thật thiết yếu, phổ quát. Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng. Bồ tát thấy tính bản nhiên như pha lê này hiện hữu trong tất cả chúng ta, và bằng việc nhận ra sự tuyệt đẹp của năng lực con người chúng ta, đã luôn luôn có sự tôn trọng.
29/11/2015(Xem: 4528)
Các thanh niên dòng Da Xá trông thấy tướng hảo giải thoát của các vị Thánh này, nên đã phát tâm xuất gia. Cha mẹ và vợ con của các thanh niên Da Xá tìm đến Lộc Uyển thấy hào quang của Đức Phật và đại chúng trang nghiêm cũng phát tâm quy y Tam bảo. Từ đó, Phật giáo có mặt ở Ấn Độ và trải qua suốt thời gian dài hơn 2500 năm, Phật giáo đã được truyền bá từ nước này sang nước khác, có lúc thạnh, lúc suy. Tìm hiểu nguyên nhân nào làm Phật pháp hưng thạnh, hay suy đồi, để chúng ta giữ gìn và phát triển được đạo pháp.
28/11/2015(Xem: 5342)
“Nếu có Tỳ-kheo nào không tàm không quý thì làm tổn hại ái và kỉnh. Nếu không có ái và kỉnh thì làm tổn hại tín. Nếu không có tín thì làm tổn hại chánh tư duy. Nếu không có chánh tư duy thì làm tổn hại chánh niệm chánh trí. Nếu không có chánh niệm chánh trí thì làm tổn hại gìn giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát thì làm tổn hại Niết-bàn. “Nếu Tỳ-kheo nào biết hổ thẹn thì có ái và kỉnh. Nếu có ái và kỉnh thì thường có tín. Nếu có tín thì thường có chánh tư duy. Nếu có chánh tư duy thì thường có chánh niệm chánh trí. Nếu có chánh niệm chánh trí thì thường giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu giải thoát thì liền được Niết-bàn.
28/09/2015(Xem: 5718)
Tất cả chúng ta hiện giờ có mặt ở đây không phải chỉ một lần, mà là vô số lần rồi. Con người bỏ thân này chưa phải là hết, mà còn lang thang không biết đến bao giờ. Vì vậy nhà Phật thường dùng từ “lang thang trong kiếp luân hồi”, cứ đi mãi không biết dừng nơi đâu? Đức Phật thấy được những nẻo đường của chúng sanh đến và đi nên Ngài mới nói “Thuyết luân hồi”.
26/09/2015(Xem: 5671)
Thật vậy, ngay sau khi thành đạo, Đức PHẬT đã tuyên bố “LỜI GIẢI CHO BÀI TOÁN KHỔ” của thế gian một cách rất ngắn gọn, giản dị, và rõ ràng; Chỉ như sự chửa bệnh của một ông Bác sĩ: "Nầy các tỳ kheo, bởi vì không thông hiểu, không thấu đạt Bốn Sự Thật Cao Quý mà ta cũng như quý vị từ lâu đã phải trãi qua nhiều kiếp luân hồi trong vòng sinh tử... Bằng cách thông hiểu, bằng cách thấu đạt 4 SỰ THẬT: 1) SỰ THẬT về KHỔ, 2) SỰ THẬT về NGUYÊN NHÂN của KHỔ 3) SỰ THẬT về NIẾT BÀN (lúc khổ tận diệt) 4) SỰ THẬT về CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN NIẾT BÀN lòng tham thủ về sinh hữu được đoạn tận, sự hỗ trợ để sinh hữu được phá hủy, và từ đó không còn khổ đau vì sinh tử nữa."
08/09/2015(Xem: 5129)
Công cuộc giáo hoá độ sanh của Đức Phật thành tựu viên mãn chính nhờ Ngài tu tập Tứ vô lượng tâm đạt đến vô lượng. Tứ vô lượng tâm là Bốn tâm vô lượng bao gồm: Từ vô lượng tâm, Bi vô lượng tâm, Hỷ vô lượng tâm và Xả vô lượng tâm. “Từ” nguyên văn là: “Từ năng dữ nhất thiết chúng sanh chi lạc”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567