Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm và vật

23/08/201307:30(Xem: 4927)
Tâm và vật

Duc_Phat_Thich_Ca (4)


TÂM VÀ VẬT

Đức Phật nói rất nhiều vấn đề, Khoa học cũng đã chứng minh được nhiều vấn đề mà đức Phật đã nói cách nay trên 2550 năm; trong phạm vi giới hạn, bài này người viết chỉ đưa ra hai vấn đề đó là: 1. Tam tế tướng, 2. Tâm và vật, để xem Khoa học nói gì về hai vấn đề này.

I ) - TAM TẾ TƯỚNG: (Ba thể nhỏ nhiệm)

ĐỨC PHẬT DẠY:

Cấu tạo con người và vạn vật đều do Tam tế tướng của A Lại Đa Thức mà thành, Tam tế tướng gồm có Nghiệp tướng, Cảnh giới tướng và Chuyển tướng; tuy ba nhưng chỉ là một, một mà là ba; vật chất và tinh thần đều là một thể.

VỀ KHOA HỌC:

Các nhà Khoa học cho biết trong vũ trụ chỉ có ba thứ, đó là Năng lượng (Energy), Vật chất (Matter) và Tin tức (Information, News); do ba thứ này mà sinh ra đủ thứ trong vũ trụ.

LỜI BÀN:

Trước khi so sánh: lời đức Phật nói và sự tuyên bố của các nhà Khoa học, chúng ta nên tìm hiểu về A Lại Đa Thức.

Thức là gì?Thức là sự nhận biết phân biệt, Thức vô hình không thấy được, Theo Duy Thức Học, con người có 8 thức như sau:

1- Nhãn thức:Là thấy biết hình sắc do nhãn căn (mắt) tiếp xúc với sắc trần (cảnh vật).

2- Nhĩ thức:Là nghe biết khi nhĩ căn (tai) đón nhận thanh trần (âm thanh).

3- Tỵ thức:Là biết mùi khi tỵ căn (mũi) đón nhận hương trần (mùi).

4- Thiệt thức:Là biết vị khi thiệt căn (lưỡi) tiếp xúc vị trần (thức ăn thức uống).

5- Thân thức:Là biết cảm giác do thân căn (thân thể tay chân) tiếp xúc trần (vạn vật).

Năm thức này có nhiệm vụ ghi nhận khi năm căn tiếp xúc với năm trần.

6- Ý thức:Là thức thứ sáu có nhiệm vụ tiếp xúc với pháp trần, pháp trần là tất cả những gì mà năm thức trên ghi nhận được, ý thức duyên với năm thức trên để nhận diện, phán đoán, phân biệt cho rõ ràng.

7- Mạt Na thức:“tự ý thức”, thức thứ bảy tự ý thức về chính mình, còn gọi là “Ý”, tự ô nhiễm cho rằng mình có một cái “ta”; Mạt Na đưa tin tức về cảm giác chủng tử từ sáu thức trước cho A Lại Đa (Thức thứ tám) gìn giữ tất cả các sự kiện, và chấp làm thật ngã thật pháp. Tuy nhiên, nó luôn luôn thay đổi, nó là căn bản phiền não gồm: Ngu si, tà kiến, kiêu mạn, và ái dục. Mạt Na còn là tác giả của “căn cảnh duyên, tác ý duyên, và chủng tử duyên”; nó có tánh tướng lo nghĩ và làm chỗ nương tựa cho sáu thức trước về ô uế hoặc trong sạch. Mạt Na phân biệt chủ thể khách thể, tạo nên ý thức “nhị nguyên” (Cho rằng bản thể vũ trụ do hai bản thể làm thành, hoặc theo hai cái nguyên đề mà suy diễn ra cái khác như sáng tối, phải trái, đẹp xấu, yêu ghét v.v…); Mạt Na chấp ngã, nhân, chúng sanh, chấp đủ thứ điên đảo. Năm giác quan cùng ý thức báo cho Mạt Na tin tức từ bên ngoài không hề đánh giá tốt xấu, nhưng chính Mạt Na, thức thứ bảy này là kẻ đánh giá phải trái, hay dở, yêu ghét v.v… và ra lệnh cho sáu thức kia phản ứng hành động; đồng thời Mạt Na đưa tất cả các cảm giác (chủng tử) vào A Lại Đa thức là thức thứ tám.

8- A Lại Đa Thức:Các cảm giác của tất cả các hoạt động của Năm Căn và Ý thức được Mạt Na đưa vào “A Lại Đa”, là Thức thứ tám, còn gọi là “Tàng thức”. A Lại Đa có nhiệm vụ gìn giữ tất cả các tin tức ấy, gọi là “chấp trì sinh mệnh chủng tử” của các pháp, nó luôn luôn sẵn sàng tiếp nhận tin tức do Mạt Na chuyển đến, không bao giờ đầy, ví như chiếc bình không đáy, bao nhiêu chứa cũng hết và không bao giờ mất. Cả đời người sóng gió lên bổng xuống chìm, trải qua biết bao nhiêu sự việc, trong A Lại Đa có đầy đủ, ví như cái máy “Vi tính” chứa đủ thứ của cuộc đời.

Tóm lại: A Lại Đa Thức là thức thứ tám của chúng ta, nó chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống chúng ta và là nguồn gốc của tất cả hiện tượng gồm có Nghiệp tướng, Cảnh giới tướng và Chuyển tướng.

So sánh, chúng ta thấy có sự trùng hợp giữa lời đức Phật dạy và Khoa học, đó là:

- Phật nói Nghiệp tướng, nhà Khoa học gọi là Năng lượng,

- Phật nói Cảnh giới tướng, nhà Khoa học gọi là Vật chất,

- Phật nói Chuyển tướng, nhà Khoa học gọi là Tin tức.

Như vậy, chúng ta không còn nghi ngờ những lời Đức Phật đã nói, vì đã được các nhà Khoa học có cùng quan điểm như thế; tuy nhiên điều mà Đức Phật nhấn mạnh, đó là “Vật chất và tinh thần đều là một thể”, nghĩa là trong vật chất có năng lượng, trong năng lượng có vật chất và có cả tin tức nữa; tức là một mà là ba, ba mà là một, điều này nhà Khoa học vẫn chưa tìm ra.

II ) – TÂM VÀ VẬT CHẤT(Cảnh vật)

“Tướng do Tâm sinh,

Cảnh tùy Tâm chuyển”

ĐỨC PHẬT DẠY:

Trong Kinh đức Phật dạy: “Tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển”, như Kinh Hoa Nghiêm nói: "NHẤT THIẾT DUY TÂM TẠO"; thế nào là tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển?

- Tướng do tâm sinh:

Khi con người chết đi, thần thức mang theo nghiệp thức đã tạo trong suốt đời để được sinh vào một trong 6 cõi: Trời, Người, Thần, Ngạ Quỷ, Súc sanh, Địa ngục. Tùy nghiệp thức mà có hình dáng của cõi được sinh vào như thế, nếu tái sinh cõi Người thì tùy nghiệp mà được thân hình toàn vẹn đẹp đẽ hay xấu xa hay khuyết tật v.v...

Tướnglà tướng mạo hình dạng mặt mũi thân thể con người, tướng do tâm sinh là hình dạng mặt mũi của chúng ta do tâm chúng ta mà sinh ra như thế. Khi mới sinh ra thì hình dạng do nghiệp thức tạo ra, khi lớn lên mặt mũi, thân hình mỗi ngày mỗi thay đổi khác, tùy theo tâm niệm của mỗi người trong suốt hành trình của cuộc đời.

Tóm lại tướng mạo của con người là hiện tượng vật chất, tướng mạo đẹp xấu cùng ý niệm của con người có liên quan. Nói rõ hơn thì hành vi ý niệm tốt sẽ có tướng mạo đẹp, chẳng những tướng mạo đẹp mà còn khoẻ mạnh nữa.

- Cảnh tùy tâm chuyển:

Cảnhlà cảnh vật chung quanh chúng ta, như đất đai núi rừng sông biển đại địa và tất cả những thứ vật chất nhỏ bé khác. Hoàn cảnh vật chất ấy theo ý niệm của con người mà chuyển biến.

Hiện nay trên thế giới xã hội động loạn, bên trong có nguyên tố con người, còn những tai họa thiên nhiên đối với mọi người tưởng rằng không có tương quan, sự thực không phải vậy. Đức Phật đã dạy “Cảnh tùy tâm chuyển”, tâm niệm của chúng ta và những tai họa thiên tai coi như tự nhiên ấy có tương quan mật thiết với nhau. Nếu tất cả con người đều có niệm thiện thì những tai biến thiên nhiên như bão lụt, động đất, sóng thần, núi lửa phụt lên sẽ không xảy ra.

Có thể tin được hai điều đức Phật dạy không?

Trong tạp A Hàm quyển 2 trang 302 khi Tôn Giả Mục Kiền Liên thưa với Phật rằng Tôn Giả nhìn thấy chúng sinh lớn như cái nhà lầu trên hư không, Đức Phật xác nhận là có, nhưng Phật đã không nói ra vì sợ nói ra, người không tin, và Phật còn nói “Những người không tin lời Ta nói là ngu si, mãi mãi chịu khổ”. Phật vì thương xót chúng sinh nên mới nói ra, mà không chịu tin thì nhất định phải chịu khổ, vì không tin nên không làm theo lời dạy của Ngài, nên phải chịu khổ là lẽ dĩ nhiên.

VỀ KHOA HỌC:

- Thí nghiệm thnhất:Năm 2004, Bác sĩ người Nhật tên Giang Bản Thắng đã công bố kết qủa cuộc thí nghiệm trên 10 năm với mấy chục vạn lần (mấy trăm nghìn lần) thí nghiệm như sau:

Ông dùng nước làm đông lạnh để quan sát trong phòng thí nghiệm có kính hiển vi để quan sát và máy chụp hình để chụp các kết qủa. Bắt đầu, ông cho nước xem một hàng chữ khen ngợi nước là quý dễ thương, là hữu ích cho muôn loài v.v..., đồng thời hạ nhiệt độ cho nước đông lại, thì trên mặt băng đá kết tinh những hoa tuyết đẹp. Khi thí nghiệm cho nước nhìn các dòng chữ chê bai nước xấu xa dơ bẩn chẳng mang lại lợi ích gì v.v..., thì trên mặt băng đá hiện những hình xấu xí. Cũng thí nghiệm như thế đối với chữ của các nước khác, nước đều đọc hiểu và thể hiện tương tự; điều này chứng tỏ nước đọc và hiểu chữ viết của tất cả mọi nước; nước thông minh tuyệt vời nên mới như thế!

Bác Sĩ Giang Bản Thắng chưa ngừng ở đây, ông tiếp tục thí nghiệm bằng lời nói; Ông nói lời khen ngợi nước thì nước kết tinh hoa tuyết rất đẹp, còn ông nói chê bai nước thì nó kết tinh những hình xấu xí; Ông cũng làm tương tự như thế khi dùng những tiếng nói của nhiều dân tộc khác nhau thì phản ứng của nước cũng cùng một kết qủa.

Bác Sĩ Giang Bản Thắng vẫn chưa ngưng thí nghiệm, lần này, ông không nói với nước, cũng chẳng cho nước coi chữ, mà ông đối diện với nước, dùng ý niệm của mình xem nước có hiểu không; kết qủa là khi ông có ý nghĩ vui vẻ khen ngợi nước, nó cũng kết tinh hoa tuyết rất đẹp đẽ, còn khi ông chỉ có ý nghĩ xấu chê bai nó thì nó kết tinh những hình thù xấu xí.

Để cho chắc chắn rõ ràng hơn, ông cũng làm thí nghiệm về ý niệm với nhiều người của nhiều dân tộc khác nhau, thì ông đều có cùng một kết qủa, nước thông minh tuyệt vời!

- Thí nghiệm thứ hai:Tại một eo biển ở Nhật, có một cái hồ tên hồ Tỳ Bà, nước ở hồ này luôn luôn có mùi hôi làm cho những người qua lại rất khó chịu vì mùi hôi từ hồ bốc lên. Từ nhiều năm trước người ta nghĩ cách để làm mất mùi hôi, nhưng vô phương kế phải bó tay. Bác sĩ Giang Bản Thắng cho làm một cuộc thí nghiệm như sau:

Ông thỉnh một vị Hòa Thượng chân tu cùng với trên 100 người đến bờ hồ nơi có gió xuôi để mọi người không ngửi mùi hôi, vị Hòa Thượng điều khiển buổi cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện mọi người đều buông bỏ hết tạp niệm, nghĩa là không suy nghĩ chuyện nọ việc kia, chỉ có một tâm niệm duy nhất với một câu niệm “Nước trong hồ sạch rồi, nước trong hồ sạch rồi, nước trong hồ sạch rồi . . .”. Buổi cầu nguyện kéo dài một giờ, và thực hiện sau ba buổi thì nước hồ hết mùi hôi; thật là mầu nhiệm biết bao!

Tuy nhiên, sau nửa năm, nước hồ có mùi hôi trở lại; do đó trong dịp thăm nước Nhật và thăm Bác sĩ Giang Bản Thắng năm 2005, Hòa Thượng Tịnh Không, người Trung Quốc nói với Bác sĩ Giang Bản Thắng: “Nếu cứ 2 tháng cho người đến cầu nguyện một lần như thế thì nước hồ sẽ không còn mùi hôi”.

LỜI BÀN:

Trước kia, vì vô minh không hiểu lời đức Phật nói nên không tin không làm theo lời dạy của Ngài, tạo ra biết bao nhiêu khổ đau cho mình và cho người. Kể từ bây giờ, Khoa học đã chứng minh câu nói của Phật: “Tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển”, chúng ta đã có chính tín rồi thì còn chần chừ gì nữa mà chắng vâng làm.

Để được tường tận rõ ràng hơn chúng ta bàn thêm dưới đây:

Tướng do tâm sinh:Thân thể con người là vật chất được cấu tạo bởi vô số tế bào, mà tế bào lại được làm thành bởi vô số nguyên tử hạt điện tử. Trong phần vật chất của cơ thể con người có 70% là nước. Khi chúng ta khởi tâm niệm thiện thì 70% là nước ấy trong cơ thể sẽ trở nên đẹp đẽ khoẻ mạnh sống lâu; khi chúng ta khởi lên niệm xấu ác thì 70% nước trong cơ thể trở nên xấu và là căn nguyên của sự sinh ra bệnh.

Muốn sống lâu trong khỏe mạnh, chúng ta phải nghĩ lành tránh nghĩ ác, muốn nghĩ lành tránh nghĩ ác, chúng ta phải biết phân biệt giữa thiện và ác; nói đến điều thiện và điều ác một cách tổng quát thì ai cũng biết, nhưng đi vào chi tiết và cách đối xử hàng ngày nhiều người đã không phân biệt được đâu là thiện, đâu là ác. Nhiều người đã lầm lẫn giữa thiện và ác, họ đã cho việc ác là thiện, việc thiện là ác, vì không phân biệt được giữa thiện và ác một cách rõ ràng, nên họ đã hành động điên đảo, tạo khổ đau cho mình và cho người.

Đức Phật dạy bốn nguyên tắc căn bản để chúng ta nhận định phân biệt được sự khác biệt giữa điều tốt việc thiện, với điều xấu việc ác như sau:

1-Nếu ý nghĩ lời nói việc làm của mình có hại cho mình, có hại cho người, có hại cho cả hai, đây là điều xấu, việc ác.

2-Nếu ý nghĩ lời nói việc làm của mình có lợi cho mình, có hại cho người, đây là điều xấu, việc ác.

3-Nếu ý nghĩ lời nói việc làm của mình có hại cho mình, có lợi cho người, đây là điều tốt, việc thiện.

4-Nếu ý nghĩ lời nói việc làm của mình có lợi cho mình, có lợi cho người, đây là điều tốt, việc thiện.

Từ bốn nguyên tắc này, chúng ta cố gắng suy gẫm, sẽ phân biệt được đâu là thiện đâu là ác; như vậy chúng ta không còn nhầm lẫn giữa thiện và ác, theo đó chúng ta hành động một cách quang minh chính đại, và nó sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta. Chúng ta phải thực hành liền: ngay sau khi đọc bài này, chứ không phải đợi tới lúc bệnh hoạn xảy ra rồi mới nghĩ tới điều làm lành thì đã bỏ qua mất cơ hội tốt cho mình mất rồi.

Ở đây chúng ta chỉ bàn đến điều gì mà Khoa học đã chứng minh được thôi, đó là thí nghiệm nước; nhưng thực ra Phật nói còn xa hơn rất nhiều, đó là tất cả vật chất chứ không chỉ có nước, tất cả vật chất đều có liên hệ đến tâm niệm của con người. Nghĩa là thân thể chúng ta do bốn đại “đất nước gió lửa” hợp thành, cả bốn đại này đều cảm ứng biết tâm niệm thiện ác khen chê vui buồn v.v… của chúng ta vậy. Rất tiếc Khoa học chưa tiến tới chỗ chứng minh tất cả vật chất đều cảm ứng biết tâm niệm con người.

Cảnh tùy tâm chuyển:Thí nghiệm về nước hồ Tỳ Bà chỉ là một việc nhỏ trong cái thế giới rộng lớn này.

Trong Kinh Lăng nghiêm Phật dạy:

1- Tham lam vô bờ bến: Mưa như đổ nước xuống không ngừng gây lũ lụt là do cảm chiêu của lòng tham lam quá nhiều của con người.

2- Sân hận căm thù:Hỏa tai, núi lửa nổ tung, sức nóng của trái đất tăng lên là do cảm chiêu của lòng sân hận căm thù của con người.

3- Ngu si tà kiến:Lốc xoáy, bão tố thổi đổ cây, tan nát nhà cửa do cảm chiêu của ngu si tà kiến.

4- Kiêu căng ngã mạn:Loạn động bất an, động đất sóng thần là do chiêu cảm của tính kiêu căng lòng ngã mạn của mỗi con người hợp lại mà thành.

Con người sống trên trái đất này có qúa nhiều tham sân si mạn đến mức không thể khống chế nổi, cho nên tai nạn nào cũng đều xuất hiện cả; tình trạng này có hóa giải được không?

Đối với Khoa học, cho đến nay: vẫn chưa đưa ra được giải pháp cụ thể nào cả.

Đối với Phật giáo, chúng ta đã hiểu câu Kinh Phật nói “Cảnh tùy tâm chuyển” thì có thể hóa giải được, bằng cách như Phật dạy: “Tận diệt tham sân si mạn, siêng tu Giới Định Tuệ”

Mọi người đều buông bỏ hết tham sân si mạn và thực hành Giới cấm, thiền Định, trau giồi trí Tuệ, thì thân thể đẹp đẽ khoẻ mạnh sống lâu, và các tai nạn thiên nhiên cũng giảm xuống. , .

Toàn Không

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/07/2019(Xem: 4905)
Triết lý hay mục đích sống là lý tưởng, giá trị cốt lõi của mỗi người, chính vì thế mà ngày nay,hầu hết trong chúng ta, ai cũng có khuynh hướngtìm về sự thật, mộtgiải pháp cứu cánh, rốt ráo, an toànvì ‘hòa bình bền vững’, xã hội trật tự vàngày ngày an lành ... Hòa chungtrách nhiệm, bản hoài, thông điệp : ‘Chân lý chỉ có một’,[1]đồng nghĩa với ‘Sự lãnh đạo bằng chánh niệm’ qua cách tiếp cận của Phật giáo, mang vạn niềm vui đến với muôn loài. Thật vậy, Phật giáo với trọng trách mang ‘an vui lâu dài’, là nội dung cốt lõi của xã hội nhân loại, cũng là tiền đề cho một xã hội bền vững;trong đó mỗi cá thể cần củng cố,xây dựngnội tâmkiên cố dựa trên phương cách lãnh đạo bằng‘chánh niệm’, đểcùng nhìn lại, quán chiếu và cùng dẫn đến trách nhiệm sẻ chia …
29/06/2019(Xem: 6907)
"Nhân sinh": đời người, cuộc sống con người "Quan": cái nhìn, quan niệm "Nhân sinh Quan" nghĩa là "cái nhìn" hay "quan niệm" về đời sống của con người. A) Con người từ đâu mà có? Phật giáo giải đáp câu hỏi ngàn đời nầy bằng giáo thuyếtThập nhị Nhân duyên, tức là chuỗi 12 nhân duyên dây chuyền sau đây: 1) Vô minh: Do một niệm bất giác mà phát sinh mê lầm, chấp ngã chấp pháp, do đó mà khởi ra Phiền não - nên cũng gọi là Hoặc. Chúng ta không thể tìm ra điểm khởi đầu của sự Vô minhđã khởi đầu cho sự hiện hữu của chúng sinh và vạn vật, hữu tình cũng như vô tình.
12/04/2019(Xem: 3699)
Thế mới biết trăm sông rồi cũng đổ về biển, dung hòa một vị mặn của đại dương; muôn pháp cùng đổ vào biển tuệ, thuần một vị giải thoát.Những lời dạy của đức Phật được ghi chép thành Tam tạng kinh điển, trở thành một trong những kho tàng trí tuệ vĩ đại nhất của nhân loại. Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật được truyền bá rộng rãi khắp năm châu và bị ảnh hưởng cũng không nhỏ bởi nhiều nền văn hóa khác. Từ đó, đạo Phật phát triển với các biểu tượng về tôn giáo, về các hình thức nghi lễ, và kể cả những pháp môn tu hành của những khóa tu ở mỗi nơi.Chính vì thế, đạo Phật bị đa dạng hoá về hình thức lẫn nội dung tu tập, thể hiện qua nhiều pháp môn. Như vậy trong thời đại bây giờ, đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn; pháp môn nào là đúng, phápmôn nào là sai? Không có pháp môn nào là đúng và không có pháp môn nào là sai cả. Tại sao? Vì pháp môn tu không có lỗi, mà lỗi ở tại con người làm đúng hay sai mà thôi.
14/02/2019(Xem: 7005)
Thuở xưa có một ông vua hiền đức, cai trị công bằng, dân chúng trong nước sống thanh bình. Một hôm, dưới sự đề nghị của cận thần tả hữu, vua triệu tập tất cả trưởng lão tôn túc của các tôn giáo trong nước. Khi tất cả có mặt đầy đủ, vua nói:
13/12/2018(Xem: 4142)
Suy nghĩ về Mười Hai Nhân Duyên - GS Trần Tuấn Mẫn , Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi? Này các Tỳ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi”.
02/12/2018(Xem: 8513)
Thời gian gần đây nhiều Phật tử đã yêu cầu tôi giải thích những lời dạy vô giá của Phật theo phương cách hiện đại, xử dụng thuật ngữ và diễn giải thực tế, có hiệu quả, thực tiễn và không quá cao siêu. Theo phương cách dễ hiểu và thực tế để áp dụng trong đời sống hằng ngày. Đây là tập sách đầu của một chuỗi những tập sách nhằm mục đích đáp ứng những thỉnh cầu này. Đây là tập sách sưu tập gồm 50 lời dạy ngắn kèm theo chú giải chi tiết dài ngắn khác nhau, mục đích để khuyến khích tất cả những vị đã dành thời gian để đọc và thực hành những lời dạy này để phát triển sự hiếu biết chân thật và lòng từ bi.
05/11/2018(Xem: 3851)
“Chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là có tội; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời hãy từ bỏ chúng! Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: ‘các pháp này là thiện; các pháp này không có tội; các pháp này được các người có trí tán thán; các pháp này nếu được chấp nhận và thực hiện đưa đến hạnh phúc an lạc’, thời hãy từ đạt đến và an trú!” Đức Phật (Kinh Tăng Chi Bộ)
18/10/2018(Xem: 3746)
Phải nghi trước, rồi gỡ được nỗi nghi xong, bấy giờ tin tưởng mới chắc thật. Đó là chuyện của người tộc họ Kalama ở thành phố Kesaputta thời hơn 2,500 năm về trước. Thực tế, thời nào cũng có người Kalama, chứ không phải chỉ trong thời xa xưa. Có thể đoán rằng, những người mang dòng máu Kalama mạnh nhất, hẳn là các nhà khoa học – thí dụ, như các nhà vật lý thiên tài Albert Einstein, Stephen Hawking... Chớ hòng ai thuyết phục họ tin cái gì không thuận lý.
04/09/2018(Xem: 7219)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
14/08/2018(Xem: 6772)
Kinh Vị Tằng Hữu của Bắc tông và Tăng Chi Bộ Kinhcủa Nam Tông đều có ghi rằng trong cuộc đời của một vị Phật CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC có 4 lần sự kiện vi diệu này xảy ra. Mỗi lần như thế, có một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm thế giới của chư Thiên, thế giới Ma vương và Phạm thiên, quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến những thế giới ở chặng giữa bất hạnh không có nền tảng, tối tăm u ám, mà tại đấy, mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu ánh sáng. Trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thâm diệu thắng xa uy lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh, sanh tại đấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567