Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm và vật

23/08/201307:30(Xem: 4939)
Tâm và vật

Duc_Phat_Thich_Ca (4)


TÂM VÀ VẬT

Đức Phật nói rất nhiều vấn đề, Khoa học cũng đã chứng minh được nhiều vấn đề mà đức Phật đã nói cách nay trên 2550 năm; trong phạm vi giới hạn, bài này người viết chỉ đưa ra hai vấn đề đó là: 1. Tam tế tướng, 2. Tâm và vật, để xem Khoa học nói gì về hai vấn đề này.

I ) - TAM TẾ TƯỚNG: (Ba thể nhỏ nhiệm)

ĐỨC PHẬT DẠY:

Cấu tạo con người và vạn vật đều do Tam tế tướng của A Lại Đa Thức mà thành, Tam tế tướng gồm có Nghiệp tướng, Cảnh giới tướng và Chuyển tướng; tuy ba nhưng chỉ là một, một mà là ba; vật chất và tinh thần đều là một thể.

VỀ KHOA HỌC:

Các nhà Khoa học cho biết trong vũ trụ chỉ có ba thứ, đó là Năng lượng (Energy), Vật chất (Matter) và Tin tức (Information, News); do ba thứ này mà sinh ra đủ thứ trong vũ trụ.

LỜI BÀN:

Trước khi so sánh: lời đức Phật nói và sự tuyên bố của các nhà Khoa học, chúng ta nên tìm hiểu về A Lại Đa Thức.

Thức là gì?Thức là sự nhận biết phân biệt, Thức vô hình không thấy được, Theo Duy Thức Học, con người có 8 thức như sau:

1- Nhãn thức:Là thấy biết hình sắc do nhãn căn (mắt) tiếp xúc với sắc trần (cảnh vật).

2- Nhĩ thức:Là nghe biết khi nhĩ căn (tai) đón nhận thanh trần (âm thanh).

3- Tỵ thức:Là biết mùi khi tỵ căn (mũi) đón nhận hương trần (mùi).

4- Thiệt thức:Là biết vị khi thiệt căn (lưỡi) tiếp xúc vị trần (thức ăn thức uống).

5- Thân thức:Là biết cảm giác do thân căn (thân thể tay chân) tiếp xúc trần (vạn vật).

Năm thức này có nhiệm vụ ghi nhận khi năm căn tiếp xúc với năm trần.

6- Ý thức:Là thức thứ sáu có nhiệm vụ tiếp xúc với pháp trần, pháp trần là tất cả những gì mà năm thức trên ghi nhận được, ý thức duyên với năm thức trên để nhận diện, phán đoán, phân biệt cho rõ ràng.

7- Mạt Na thức:“tự ý thức”, thức thứ bảy tự ý thức về chính mình, còn gọi là “Ý”, tự ô nhiễm cho rằng mình có một cái “ta”; Mạt Na đưa tin tức về cảm giác chủng tử từ sáu thức trước cho A Lại Đa (Thức thứ tám) gìn giữ tất cả các sự kiện, và chấp làm thật ngã thật pháp. Tuy nhiên, nó luôn luôn thay đổi, nó là căn bản phiền não gồm: Ngu si, tà kiến, kiêu mạn, và ái dục. Mạt Na còn là tác giả của “căn cảnh duyên, tác ý duyên, và chủng tử duyên”; nó có tánh tướng lo nghĩ và làm chỗ nương tựa cho sáu thức trước về ô uế hoặc trong sạch. Mạt Na phân biệt chủ thể khách thể, tạo nên ý thức “nhị nguyên” (Cho rằng bản thể vũ trụ do hai bản thể làm thành, hoặc theo hai cái nguyên đề mà suy diễn ra cái khác như sáng tối, phải trái, đẹp xấu, yêu ghét v.v…); Mạt Na chấp ngã, nhân, chúng sanh, chấp đủ thứ điên đảo. Năm giác quan cùng ý thức báo cho Mạt Na tin tức từ bên ngoài không hề đánh giá tốt xấu, nhưng chính Mạt Na, thức thứ bảy này là kẻ đánh giá phải trái, hay dở, yêu ghét v.v… và ra lệnh cho sáu thức kia phản ứng hành động; đồng thời Mạt Na đưa tất cả các cảm giác (chủng tử) vào A Lại Đa thức là thức thứ tám.

8- A Lại Đa Thức:Các cảm giác của tất cả các hoạt động của Năm Căn và Ý thức được Mạt Na đưa vào “A Lại Đa”, là Thức thứ tám, còn gọi là “Tàng thức”. A Lại Đa có nhiệm vụ gìn giữ tất cả các tin tức ấy, gọi là “chấp trì sinh mệnh chủng tử” của các pháp, nó luôn luôn sẵn sàng tiếp nhận tin tức do Mạt Na chuyển đến, không bao giờ đầy, ví như chiếc bình không đáy, bao nhiêu chứa cũng hết và không bao giờ mất. Cả đời người sóng gió lên bổng xuống chìm, trải qua biết bao nhiêu sự việc, trong A Lại Đa có đầy đủ, ví như cái máy “Vi tính” chứa đủ thứ của cuộc đời.

Tóm lại: A Lại Đa Thức là thức thứ tám của chúng ta, nó chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống chúng ta và là nguồn gốc của tất cả hiện tượng gồm có Nghiệp tướng, Cảnh giới tướng và Chuyển tướng.

So sánh, chúng ta thấy có sự trùng hợp giữa lời đức Phật dạy và Khoa học, đó là:

- Phật nói Nghiệp tướng, nhà Khoa học gọi là Năng lượng,

- Phật nói Cảnh giới tướng, nhà Khoa học gọi là Vật chất,

- Phật nói Chuyển tướng, nhà Khoa học gọi là Tin tức.

Như vậy, chúng ta không còn nghi ngờ những lời Đức Phật đã nói, vì đã được các nhà Khoa học có cùng quan điểm như thế; tuy nhiên điều mà Đức Phật nhấn mạnh, đó là “Vật chất và tinh thần đều là một thể”, nghĩa là trong vật chất có năng lượng, trong năng lượng có vật chất và có cả tin tức nữa; tức là một mà là ba, ba mà là một, điều này nhà Khoa học vẫn chưa tìm ra.

II ) – TÂM VÀ VẬT CHẤT(Cảnh vật)

“Tướng do Tâm sinh,

Cảnh tùy Tâm chuyển”

ĐỨC PHẬT DẠY:

Trong Kinh đức Phật dạy: “Tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển”, như Kinh Hoa Nghiêm nói: "NHẤT THIẾT DUY TÂM TẠO"; thế nào là tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển?

- Tướng do tâm sinh:

Khi con người chết đi, thần thức mang theo nghiệp thức đã tạo trong suốt đời để được sinh vào một trong 6 cõi: Trời, Người, Thần, Ngạ Quỷ, Súc sanh, Địa ngục. Tùy nghiệp thức mà có hình dáng của cõi được sinh vào như thế, nếu tái sinh cõi Người thì tùy nghiệp mà được thân hình toàn vẹn đẹp đẽ hay xấu xa hay khuyết tật v.v...

Tướnglà tướng mạo hình dạng mặt mũi thân thể con người, tướng do tâm sinh là hình dạng mặt mũi của chúng ta do tâm chúng ta mà sinh ra như thế. Khi mới sinh ra thì hình dạng do nghiệp thức tạo ra, khi lớn lên mặt mũi, thân hình mỗi ngày mỗi thay đổi khác, tùy theo tâm niệm của mỗi người trong suốt hành trình của cuộc đời.

Tóm lại tướng mạo của con người là hiện tượng vật chất, tướng mạo đẹp xấu cùng ý niệm của con người có liên quan. Nói rõ hơn thì hành vi ý niệm tốt sẽ có tướng mạo đẹp, chẳng những tướng mạo đẹp mà còn khoẻ mạnh nữa.

- Cảnh tùy tâm chuyển:

Cảnhlà cảnh vật chung quanh chúng ta, như đất đai núi rừng sông biển đại địa và tất cả những thứ vật chất nhỏ bé khác. Hoàn cảnh vật chất ấy theo ý niệm của con người mà chuyển biến.

Hiện nay trên thế giới xã hội động loạn, bên trong có nguyên tố con người, còn những tai họa thiên nhiên đối với mọi người tưởng rằng không có tương quan, sự thực không phải vậy. Đức Phật đã dạy “Cảnh tùy tâm chuyển”, tâm niệm của chúng ta và những tai họa thiên tai coi như tự nhiên ấy có tương quan mật thiết với nhau. Nếu tất cả con người đều có niệm thiện thì những tai biến thiên nhiên như bão lụt, động đất, sóng thần, núi lửa phụt lên sẽ không xảy ra.

Có thể tin được hai điều đức Phật dạy không?

Trong tạp A Hàm quyển 2 trang 302 khi Tôn Giả Mục Kiền Liên thưa với Phật rằng Tôn Giả nhìn thấy chúng sinh lớn như cái nhà lầu trên hư không, Đức Phật xác nhận là có, nhưng Phật đã không nói ra vì sợ nói ra, người không tin, và Phật còn nói “Những người không tin lời Ta nói là ngu si, mãi mãi chịu khổ”. Phật vì thương xót chúng sinh nên mới nói ra, mà không chịu tin thì nhất định phải chịu khổ, vì không tin nên không làm theo lời dạy của Ngài, nên phải chịu khổ là lẽ dĩ nhiên.

VỀ KHOA HỌC:

- Thí nghiệm thnhất:Năm 2004, Bác sĩ người Nhật tên Giang Bản Thắng đã công bố kết qủa cuộc thí nghiệm trên 10 năm với mấy chục vạn lần (mấy trăm nghìn lần) thí nghiệm như sau:

Ông dùng nước làm đông lạnh để quan sát trong phòng thí nghiệm có kính hiển vi để quan sát và máy chụp hình để chụp các kết qủa. Bắt đầu, ông cho nước xem một hàng chữ khen ngợi nước là quý dễ thương, là hữu ích cho muôn loài v.v..., đồng thời hạ nhiệt độ cho nước đông lại, thì trên mặt băng đá kết tinh những hoa tuyết đẹp. Khi thí nghiệm cho nước nhìn các dòng chữ chê bai nước xấu xa dơ bẩn chẳng mang lại lợi ích gì v.v..., thì trên mặt băng đá hiện những hình xấu xí. Cũng thí nghiệm như thế đối với chữ của các nước khác, nước đều đọc hiểu và thể hiện tương tự; điều này chứng tỏ nước đọc và hiểu chữ viết của tất cả mọi nước; nước thông minh tuyệt vời nên mới như thế!

Bác Sĩ Giang Bản Thắng chưa ngừng ở đây, ông tiếp tục thí nghiệm bằng lời nói; Ông nói lời khen ngợi nước thì nước kết tinh hoa tuyết rất đẹp, còn ông nói chê bai nước thì nó kết tinh những hình xấu xí; Ông cũng làm tương tự như thế khi dùng những tiếng nói của nhiều dân tộc khác nhau thì phản ứng của nước cũng cùng một kết qủa.

Bác Sĩ Giang Bản Thắng vẫn chưa ngưng thí nghiệm, lần này, ông không nói với nước, cũng chẳng cho nước coi chữ, mà ông đối diện với nước, dùng ý niệm của mình xem nước có hiểu không; kết qủa là khi ông có ý nghĩ vui vẻ khen ngợi nước, nó cũng kết tinh hoa tuyết rất đẹp đẽ, còn khi ông chỉ có ý nghĩ xấu chê bai nó thì nó kết tinh những hình thù xấu xí.

Để cho chắc chắn rõ ràng hơn, ông cũng làm thí nghiệm về ý niệm với nhiều người của nhiều dân tộc khác nhau, thì ông đều có cùng một kết qủa, nước thông minh tuyệt vời!

- Thí nghiệm thứ hai:Tại một eo biển ở Nhật, có một cái hồ tên hồ Tỳ Bà, nước ở hồ này luôn luôn có mùi hôi làm cho những người qua lại rất khó chịu vì mùi hôi từ hồ bốc lên. Từ nhiều năm trước người ta nghĩ cách để làm mất mùi hôi, nhưng vô phương kế phải bó tay. Bác sĩ Giang Bản Thắng cho làm một cuộc thí nghiệm như sau:

Ông thỉnh một vị Hòa Thượng chân tu cùng với trên 100 người đến bờ hồ nơi có gió xuôi để mọi người không ngửi mùi hôi, vị Hòa Thượng điều khiển buổi cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện mọi người đều buông bỏ hết tạp niệm, nghĩa là không suy nghĩ chuyện nọ việc kia, chỉ có một tâm niệm duy nhất với một câu niệm “Nước trong hồ sạch rồi, nước trong hồ sạch rồi, nước trong hồ sạch rồi . . .”. Buổi cầu nguyện kéo dài một giờ, và thực hiện sau ba buổi thì nước hồ hết mùi hôi; thật là mầu nhiệm biết bao!

Tuy nhiên, sau nửa năm, nước hồ có mùi hôi trở lại; do đó trong dịp thăm nước Nhật và thăm Bác sĩ Giang Bản Thắng năm 2005, Hòa Thượng Tịnh Không, người Trung Quốc nói với Bác sĩ Giang Bản Thắng: “Nếu cứ 2 tháng cho người đến cầu nguyện một lần như thế thì nước hồ sẽ không còn mùi hôi”.

LỜI BÀN:

Trước kia, vì vô minh không hiểu lời đức Phật nói nên không tin không làm theo lời dạy của Ngài, tạo ra biết bao nhiêu khổ đau cho mình và cho người. Kể từ bây giờ, Khoa học đã chứng minh câu nói của Phật: “Tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển”, chúng ta đã có chính tín rồi thì còn chần chừ gì nữa mà chắng vâng làm.

Để được tường tận rõ ràng hơn chúng ta bàn thêm dưới đây:

Tướng do tâm sinh:Thân thể con người là vật chất được cấu tạo bởi vô số tế bào, mà tế bào lại được làm thành bởi vô số nguyên tử hạt điện tử. Trong phần vật chất của cơ thể con người có 70% là nước. Khi chúng ta khởi tâm niệm thiện thì 70% là nước ấy trong cơ thể sẽ trở nên đẹp đẽ khoẻ mạnh sống lâu; khi chúng ta khởi lên niệm xấu ác thì 70% nước trong cơ thể trở nên xấu và là căn nguyên của sự sinh ra bệnh.

Muốn sống lâu trong khỏe mạnh, chúng ta phải nghĩ lành tránh nghĩ ác, muốn nghĩ lành tránh nghĩ ác, chúng ta phải biết phân biệt giữa thiện và ác; nói đến điều thiện và điều ác một cách tổng quát thì ai cũng biết, nhưng đi vào chi tiết và cách đối xử hàng ngày nhiều người đã không phân biệt được đâu là thiện, đâu là ác. Nhiều người đã lầm lẫn giữa thiện và ác, họ đã cho việc ác là thiện, việc thiện là ác, vì không phân biệt được giữa thiện và ác một cách rõ ràng, nên họ đã hành động điên đảo, tạo khổ đau cho mình và cho người.

Đức Phật dạy bốn nguyên tắc căn bản để chúng ta nhận định phân biệt được sự khác biệt giữa điều tốt việc thiện, với điều xấu việc ác như sau:

1-Nếu ý nghĩ lời nói việc làm của mình có hại cho mình, có hại cho người, có hại cho cả hai, đây là điều xấu, việc ác.

2-Nếu ý nghĩ lời nói việc làm của mình có lợi cho mình, có hại cho người, đây là điều xấu, việc ác.

3-Nếu ý nghĩ lời nói việc làm của mình có hại cho mình, có lợi cho người, đây là điều tốt, việc thiện.

4-Nếu ý nghĩ lời nói việc làm của mình có lợi cho mình, có lợi cho người, đây là điều tốt, việc thiện.

Từ bốn nguyên tắc này, chúng ta cố gắng suy gẫm, sẽ phân biệt được đâu là thiện đâu là ác; như vậy chúng ta không còn nhầm lẫn giữa thiện và ác, theo đó chúng ta hành động một cách quang minh chính đại, và nó sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta. Chúng ta phải thực hành liền: ngay sau khi đọc bài này, chứ không phải đợi tới lúc bệnh hoạn xảy ra rồi mới nghĩ tới điều làm lành thì đã bỏ qua mất cơ hội tốt cho mình mất rồi.

Ở đây chúng ta chỉ bàn đến điều gì mà Khoa học đã chứng minh được thôi, đó là thí nghiệm nước; nhưng thực ra Phật nói còn xa hơn rất nhiều, đó là tất cả vật chất chứ không chỉ có nước, tất cả vật chất đều có liên hệ đến tâm niệm của con người. Nghĩa là thân thể chúng ta do bốn đại “đất nước gió lửa” hợp thành, cả bốn đại này đều cảm ứng biết tâm niệm thiện ác khen chê vui buồn v.v… của chúng ta vậy. Rất tiếc Khoa học chưa tiến tới chỗ chứng minh tất cả vật chất đều cảm ứng biết tâm niệm con người.

Cảnh tùy tâm chuyển:Thí nghiệm về nước hồ Tỳ Bà chỉ là một việc nhỏ trong cái thế giới rộng lớn này.

Trong Kinh Lăng nghiêm Phật dạy:

1- Tham lam vô bờ bến: Mưa như đổ nước xuống không ngừng gây lũ lụt là do cảm chiêu của lòng tham lam quá nhiều của con người.

2- Sân hận căm thù:Hỏa tai, núi lửa nổ tung, sức nóng của trái đất tăng lên là do cảm chiêu của lòng sân hận căm thù của con người.

3- Ngu si tà kiến:Lốc xoáy, bão tố thổi đổ cây, tan nát nhà cửa do cảm chiêu của ngu si tà kiến.

4- Kiêu căng ngã mạn:Loạn động bất an, động đất sóng thần là do chiêu cảm của tính kiêu căng lòng ngã mạn của mỗi con người hợp lại mà thành.

Con người sống trên trái đất này có qúa nhiều tham sân si mạn đến mức không thể khống chế nổi, cho nên tai nạn nào cũng đều xuất hiện cả; tình trạng này có hóa giải được không?

Đối với Khoa học, cho đến nay: vẫn chưa đưa ra được giải pháp cụ thể nào cả.

Đối với Phật giáo, chúng ta đã hiểu câu Kinh Phật nói “Cảnh tùy tâm chuyển” thì có thể hóa giải được, bằng cách như Phật dạy: “Tận diệt tham sân si mạn, siêng tu Giới Định Tuệ”

Mọi người đều buông bỏ hết tham sân si mạn và thực hành Giới cấm, thiền Định, trau giồi trí Tuệ, thì thân thể đẹp đẽ khoẻ mạnh sống lâu, và các tai nạn thiên nhiên cũng giảm xuống. , .

Toàn Không

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2020(Xem: 4984)
Một Phật tử tại gia như tôi không biết gặp duyên phước nào để có thể được ghi lại vài cảm nghĩ về một bài viết mà cốt lõi chính yếu nằm trong Duy Thức Học , một bộ môn khó nhất cho những ai đã theo Đại Thừa Phật Giáo chỉ đứng hàng thứ hai sau Bộ kinh Đại Bát Nhã và hơn thế nữa những lời dẫn chứng lại trích từ quý Cao Tăng Thạc Đức rất uyên bác trác tuyệt về giáo lý Phật Đà như Đệ lục Tăng Thống HT Thích Tuệ Sỹ và Cố Thiền Sư Nhật Bản Daisetz Teitaro Suzuki.
12/09/2020(Xem: 6269)
Cây danh mộc gumtree là đặc sản của Úc có nhiều loại như ta thường biết qua cây khuynh diệp, vì giống cây này đã được biến chế thành, dầu khuynh diệp trị cảm mạo hiệu quả. Chúng thường mọc tự nhiên thành rừng thiên nhiên, thân to cao, có loại vạm vỡ oai phong như lực sỹ trên võ đài, cho bóng mát cùng nhiều công dụng khác như xay thành bột chế tạo giấy các loại đa dụng, cũng như dùng làm cột trụ giăng dây điện trong nhiều thập niên qua, và đồng thời cũng là thức ăn ưa thích của loài mối (termites) nên con người hơi ngán mấy “ông thần nước mặn” này lắm. Từ này tự chế ám chỉ loài côn trùng bé nhỏ hay cắn phá làm hại hoa màu của giới nhà nông dãi dầu một nắng hai sương như chuột, chim, châu chấu, sâu rầy… cũng để gán cho những kẻ ngang bướng đều bị dán nhãn hiệu đó.
17/06/2020(Xem: 7014)
Tuy được duyên may tham dự khoá tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 19 tổ chức tại thủ đô Canberra và Ngài Ôn Hội Chủ thường xuyên hiện diện với hội chúng, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp đảnh lễ Ngài dù đã nhiều lần làm thơ xưng tán hoặc bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc được tác phẩm được in thành sách hoặc trên các trang mạng Phật Giáo .
08/05/2020(Xem: 4100)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người có thật trong lịch sử văn minh nhân loại. Ngài tên là Tất Đạt Đa, dòng họ Thích Ca, sinh vào ngày trăng tròn tháng Năm, năm 624 trước dương lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ miền trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal. Thân phụ là Vua Tịnh Phạn trị vì vương quốc Thích Ca, Thân mẫu là Hoàng Hậu Ma Gia. Thân mẫu Ngài qua đời sớm, Ngài được Vương Phi Kế mẫu là em ruột của Mẹ, Dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề thương yêu và nuôi dưỡng như con ruột.
15/03/2020(Xem: 4174)
Những điều nhận thức sai lầm theo thường thức phổ thông đều cho là sự thật; những điều nhận thức sai lầm như thế nào qua câu chuyện Điên và Không Điên mà tôi nhớ mường tượng như trong Kinh Bách Dụ có kể. Câu chuyện Điên và Không Điên như thế này: Ở vùng Thiên Sơn và Thông Lãnh, có một quốc gia nhỏ, trong đó tất cả thần dân uống nhằm nước suối có chất độc nên bị bệnh điên; ông vua hợp với quần thần thảo luận cách cứu chữa cho thần dân; nhóm thần dân bị bệnh điên cùng nhau tâu với vua của họ rằng, họ không có điên và ngược lại họ bảo ông vua mới bị bệnh điên; khi họ được vua trị hết bệnh thì họ mới biết họ bị bệnh điên. Câu chuyện này dụng ý cho chúng ta biết, có một số người nhận thức sai lầm mà không biết lại bảo người khác nhận thức sai lầm, không khác nào mình bị bệnh điên mà lại chụp mũ bảo người khác bị bệnh điên. Những điều nhận thức sai lầm, đại khái được trình bày như sau:
01/03/2020(Xem: 11791)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 7249)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
29/08/2019(Xem: 10644)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
26/08/2019(Xem: 4818)
Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng: Tín là nguồn của Đạo, là mẹ của công đức. Và nuôi dưỡng tất cả mọi căn lành. (Tín vi Đạo nguyên công đức mẫu,. Trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn.).Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực tế và trí tuệ đúng như thật. Trên tinh thần đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 45 năm, người học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Tam Pháp Ấn: 1/Chư Hành Vô Thường 2/Chư Pháp Vô Ngã 3/Niết Bàn Tịch Tĩnh Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật giáo xem là tà thuyết, và Tam Pháp Ấn này được xem là những nguyên lý căn bản của Phật Giáo.
07/07/2019(Xem: 5517)
Phật giáo không phải là tôn giáo để các tín đồ đến tham gia hay phát động như một phong trào, mà tự thân con người sau quá trình học hỏi, tư duy, nhận thức cốt lõi lời dạy của đấng Từ phụ, từ đó phát tâm tìm đến, thân cận và quy y Tam Bảo: ‘Hôm nay mong giác ngộ hồi đầu - Tịnh tâm ý quy y Tam Bảo’. Với lòng tịnh tín bất động, con người đầu thành vâng giữ mạng mạch giáo pháp, dốc lòng phụng hành đạo lý mình chọn, con người nhờ vậy được chân lý, chánh pháp che chở, thành tựu ‘Phép Phật nhiệm màu – Để mau ra khỏi luân hồi’.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567