Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cúng dường được phước

22/01/201103:49(Xem: 3655)
Cúng dường được phước

CÚNG DƯỜNG ĐƯỢC PHƯỚC

Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chươngđức Phật dạy: Bố thí cho người ác hưởng không bằng cúng dường cho người giữ năm giới. Cúng dường cho người giữ năm giới không bằng cúng dường cho người tu thập thiện (mười điều tốt.) Cúng dường cho người tu thập thiện không bằng cúng dường cho Phật. Ý nghĩa câu này là chỉ cho sự lợi ích cúng dường đúng cách.

Thời đức Phật, có hai vợ chồng là Phật tử rất tín tâm Tam Bảo, nhưng hoàn cảnh gia đình lại nghèo khó, bữa đói, bữa no. Một hôm, người chồng đến chùa thấy nhiều người đem vật thực đến cúng dường Tam Bảo, anh phát tâm hoan hỷ vô cùng.

Về nhà, anh thấy nhà mình quá nghèo, không có cái gì có thể mang đến chùa để cúng dường, anh ta tủi thân, buồn rầu, đau khổ, đến nỗi anh ta không muốn ăn, chẵng muốn làm. Người vợ biết được, bèn đưa ra ý kiến: hay là anh đem em bán đi lấy tiền cúng dường, khi nào có tiền thì anh chuộc em về. Người chồng suy nghĩ, thấy làm như vậy thì quá nhẫn tâm, nên cả hai vợ chồng bàn nhau đi vay tiền cúng dường, nếu không trả nỗi thì đến ở đợ làm việc cho họ để trừ nợ.

Sau khi suy tính, chọn lựa, hai vợ chồng đến một nhà phú hộ trong làng trình bày sự việc, được nhà phú hộ đồng ý cho vay một số tiền với điều kiện trong bảy ngày phải mang tiền đến trả. Nếu không thì cả hai vợ chồng phải đến đây làm việc ở đợ suốt đời.

Nhận được tiền, hai vợ chồng vui mừng mang đến cúng dường cho lễ Trai Tăng với tâm thành kính và hoan hỷ. Mấy ngày sau, hai vợ chồng đều cảm thấy thật hạnh phúc được góp phần vào công đức này, sẵn sàng tinh thần đến nhà Phú hộ ở đợ vào ngày mai thì hôm ấy nhà vua hay tin nhà chùa thiết lễ cúng dường Trai Tăng, Ngài thân hành đến chùa xin được cúng dường cho lễ này. Sau khi được biết đã có hai vợ chồng nhà nghèo cúng dường, nhà vua yêu cầu hai vợ chồng phải nhường phần cúng dường lễ này cho Ngài. Hai vợ chồng nhà nghèo nghe lệnh vua như vậy, bèn đến trình bày: Chúng con nhà quá nghèo, may mà có nhà phú hộ trong làng cho vay tiền cúng dường, xin nhà vua để cho chúng con lo trọn, chứ lần này con không được cúng dường Tam Bảo thì e rằng suốt đời, con không có cơ hội nào nữa. Chúng con phải đi ở đợ làm việc suốt đời cho nhà phú hộ để trả món nợ này. Xin đức vua nhân từ ban ân, để chúng con được làm trọn công đức với Tam Bảo.

Tuy bị từ chối, nhưng nhà vua rất cảm phục tấm lòng cao thượng của hai vợ chồng. Về triều, nhà vua đem chuyện này thuật lại cho các quan quân, quần thần nghe, ai cũng đem lòng cảm phục. Và Ngài truyền lệnh cấp phát tiền bạc, nhà cửa, ruộng vườn cho hai vợ chồng làm ăn sinh sống để có cơ hội làm việc phước thiện. Từ đó hai vợ chồng trở nên giàu có, tin sâu Tam Bảo hơn, thường xuyên phát tâm bố thí, cúng dường và nguyện đời đời kiếp kiếp đi theo con đường lợi ích cho tha nhân.

Thật là “nhân quả nhãn tiền,” người thực hành bố thí cúng dường với tâm thành kính, hoan hỷ, dám hy sinh như hai vợ chồng trong câu chuyện thật là hiếm thấy trong thời chúng ta.

Một vị minh quân, một ông vua sáng suốt, biết phát huy những việc làm phước đức như ông vua kể trên thật là hạnh phúc cho dân, cho nuớc. Lịch sử nhân loại đã có rất nhiều vị lãnh đạo quốc gia làm được những việc như thế. Ở Việt Nam có Trần Nhân Tông, một vị vua lãnh đạo đất nước bằng tinh thần Bi, Trí, Dũng của đạo Phật, hướng dẫn dân chúng tu hành theo tinh thần Phật dạy, xây dựng nên một nước Việt nam hùng cường về mọi mặt, bên ngoài chiến thắng ngoại xâm, bên trong dân chúng sống thanh bình, no ấm, an vui như đang sống trong cõi Cực Lạc hiện tiền.

Đạo lý nhà Phật dạy con người sống có ích cho đời và đạo, không vì lợi ích riêng tư mà làm khổ mình, khổ người. Người Phật tử khi thực hành bố thí cho người, dù họ là người ăn xin hay kẻ tật nguyền cũng đều cung kính tôn trọng, không cho mình là người cao quý, mà có thái độ xem thường hay khinh rẻ. Tuy hành động bố thí vẫn có phước báu, nhưng lại tăng trưởng tâm cống cao, ngã mạn làm cho người nhận không vui ắt phải chịu quả báo không tốt về sau.

Tóm lại, thực hành bố thí cúng dường với lòng hoan hỷ, chân thành, kính trọng người nhận, đồng thời khởi tâm nguyện cầu Tam Bảo luôn thường trụ thế gian để ta có cơ hội học hỏi đạo lý, phẩm chất làm người, đến khi xác thân này tan rã không còn nhân duyên bám víu thì nghiệp thức này sẽ dẫn dắt ta tái sinh vào cảnh giới an lành, không bị trôi lăn trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.

Khi phát tâm bố thí

Tùy nhân quả chiêu cảm

Như vì thương mà thí

Quả chắc được an vui.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/12/2013(Xem: 18082)
Thành thật luận 成實論 (Satyasiddhi-śāstra) cũng gọi Tattvasiddhi Śāstra 16 quyển, hoặc 20 quyển, do Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) tạo luận, Cưu-ma-la-thập (Kumārạiva) dịch, Đàm Quỹ ghi chép, Đàm Ảnh chỉnh lý, trong khoảng đời Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thùy thứ 13 đến 14 (411 ~ 412), thâu lục trong Đại Chính, Đại Tạng Kinh, Tập số 32, kinh số 1647.
17/12/2013(Xem: 16415)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”. Và bản nguyện của Phật là muốn khai thị cho chúng sanh ngộ nhập được tri kiến Phật của
17/12/2013(Xem: 15452)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránh và đề phòng không kịp.
16/12/2013(Xem: 18381)
Dân tộc ta thừa hưởng nhiều tư tưởng triết lý tôn giáo cũng như chính trị và văn học của nhân loại; khởi đầu là tư tưởng Nho gia, Đạo giáo rồi đến Phật học. Suốt thời kỳ dài, "Tam giáo đồng nguyên" đã hòa hợp khá nhuần nhuyễn để dân tộc ta có một nếp sống hài hòa từ văn hóa đến kiến trúc, nghi lễ, chính trị, giáo dục, giao tế... Vì thế, những di tích còn để lại ngày nay ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung, mỗi làng đều có Đình, Miếu và chùa trong một quần thể mỗi xã, huyện.
16/12/2013(Xem: 11440)
Có một lần, đức Phật đi ngang qua bộ lạc của người Kalama. Nghe danh tiếng của Phật, người dân của bộ lạc này tìm đến đảnh lễ và hỏi Phật, Có một số đạo sư khác đi ngang qua đây. Nhưng người nào cũng làm sáng tỏ, và ca tụng quan điểm của chính mình, nhưng lại bài xích, khinh miệt, chê bai, và xuyên tạc quan điểm người khác. Ðối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân: "Trong những vị đạo sư này, ai nói sự thật, ai nói dối?"
16/12/2013(Xem: 14227)
Giới là sự khác biệt căn bản giữa người nam và người nữ, liên quan đến giới tính, đến vai trò và vị trí xã hội của họ. Vấn đề bình đẳng giới được nêu lên nhằm giải quyết sự thiệt thòi của phụ nữ vì bị đối xử phân biệt
14/12/2013(Xem: 9147)
Trong thời gian gần đây có một số ý kiến cho rằng phương pháp thực hành chánh niệm, hiện pháp lạc trú, mà các nhà Phật học trình bày trong nhiều sách báo, tạp chí Phật giáo là không đúng tinh thần Phật dạy, vì những điều này gần giống với chủ trương của triết thuyết hiện sinh (Existentialism) phương Tây hơn là tư tưởng Phật giáo. Các luận điểm nói:
14/12/2013(Xem: 36122)
Năm 2006, khi tôi viết thư xin phép Thiền sư Bhante H. Gunaratana để dịch quyển tự truyện cuộc đời ngài, Hành Trình Đến Chánh Niệm (Journey To Mindfulness), Thiền sư không những đã từ bi hoan hỷ cho phép, mà còn giới thiệu về quyển sách mới của ngài, Eight Mindful Steps To Happiness. Do duyên lành đó hôm nay bản dịch của quyển sách trên được đến tay độc giả với tựa Bát Chánh Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc.
14/12/2013(Xem: 10842)
Nói đến tu hành là nói đến tội phước, nếu không rõ tội phước tức là không rõ sự tu hành. Nếu người tu mà cứ lao mình trong tội lỗi, ấy là người tạo tội cho không phải là người tu hành. Mọi sự an vui và đau khổ gốc từ tội phước mà sanh ra. Vì thế muốn thấu hiểu sự tu hành chúng ta phải thấu hiểu tội phước. Tội phước là những hành động thiết thực trong cuộc sống nầy, không phải là chuyện siêu huyền mờ ảo đâu đâu. Thế nên người tu hành phải thấu đáo, phải phân rành vấn đề tội phước.
14/12/2013(Xem: 9288)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, vườn ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ kheo: Này các Tỷ kheo, có hai loại người ngu này. Thế nào là hai? Người có phạm tội nhưng không thấy có phạm tội và người không chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình. Này các Tỷ kheo, có hai loại người ngu này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]