Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần III - Hòa thượng Thích Trí Quang

12/04/201316:59(Xem: 16849)
Phần III - Hòa thượng Thích Trí Quang

Kinh Pháp Cú

Phần III

19. Sống Pháp

Pc. 256
Người ấy đâu phải
là sống theo Pháp?
Bởi vì người ấy
phân xử một cách
khinh suất, độc đoán.
Người trí biết rõ
ai đúng ai sai
rồi mới phân xử.
Pc. 257
Người trí thì không
lãnh đạo một ai
bằng những xảo thuật.
Mà phải lãnh đạo
đúng với pháp luật
chứ không thiên vị.
Người trí nắm giữ
pháp luật như vậy
xứng đáng được gọi
người sống theo Pháp.
Pc. 258
Không phải nói nhiều
mà được gọi là
người có trí thức.
Mà phải điềm tĩnh,
chu toàn cho người
chứ không thù ghét
cũng không e sợ.
Như vậy mới thật
xứng đáng được gọi
là người trí thức.
Pc. 259
Không phải nói nhiều
mà được gọi là
người thông suốt Pháp.
Mà nghe tuy ít,
đích thân trực nhận
cái Pháp được nghe,
chứ không hời hợt
đối với Pháp ấy.
Thế mới đáng gọi
người thông suốt Pháp.
Pc. 262
Không vì lý do
ăn nói hùng hồn
hình dáng thanh tú
mà đã trở thành
một người hiền lương -
nếu còn đủ cả
ganh ghét, ích kỷ,
xảo quyệt, ngạo mạn.
Pc. 263
Chặt được, phá được,
nhổ được tận gốc
tính xấu trên đây,
nhất là bỏ được
cái thói giận dữ,
thì người trí này
mới đáng được gọi
là người hiền lương.
Pc. 269
Siêu việt mọi sự
thiện cũng như ác,
chuyên tâm phạm hạnh,
đem cái "thấy biết
đúng như sự thật"
mà sống trong đời,
thế mới đích thực
là vị Tỷ kheo.
Pc. 270
Sát hại sanh linh
thì đâu có phải
là bậc cao quí.
Mà bậc cao quí
thì phải là người
không tổn hại ai.
Pc. 271 - 272
Không phải chỉ vì
giữ giới, khổ hạnh,
học rộng, định tâm,
thanh cư, độc cư,
mà đã tự cho
"mình hưởng thụ được
cái vui xuất gia
mà người bình thường
không thể hưởng thụ".
Các vị Tỷ kheo!
Chớ có tự mãn
một khi chưa hết
ô nhiễm dơ bẩn.

20. Đường đi

Pc. 273
Đường chánh tám chi:
đường đi hơn hết
trong mọi đường đi.
Chân lý bốn chi:
chân lý hơn hết
trong mọi chân lý.
Siêu thoát ái dục:
Niết bàn hơn hết
trong mọi Niết bàn.
Nhãn quan toàn hảo:
là bậc hai chân
hơn hết ở trong
các loài hai chân.
Pc. 274
Không đường nào khác,
chỉ có đường này
đưa các người đến
nhãn quan toàn hảo.
Các người đi theo
đường đi như vầy
thì chính Ma vương
hết sức lo âu.
Pc. 277 - 279
Về mặt "diễn biến"
gọi là vô thường;
thấm thía như vậy
thì đó, đường sáng.
Về mặt "bất toàn"
gọi là khổ não;
thấm thía như vậy
thì đó, đường sáng.
Về mặt "tổ hợp"
gọi là vô ngã;
thấm thía như vậy
thì đó, đường sáng.
Pc. 280
Lúc cần cố gắng
vẫn không cố gắng,
còn trẻ và mạnh
mà lại lười nhác,
ý chí suy nhược,
cơ thể uể oải,
kẻ thụ động ấy
làm sao vận dụng
trí tuệ tư duy
đi theo "đường chánh"?
Pc. 281
Thận trọng miệng lưỡi,
chế ngự thân thể,
phòng vệ tâm ý,
làm sạch cả ba
nguồn hành động ấy,
như thế tức là
đi theo đường đi
của Phật chỉ dẫn.
Pc. 287
Say đắm bám lấy
con cái tài sản,
người mà như vậy
cái chết bám lấy,
túm lấy lôi đi
như là bão lũ
cuốn trôi cả vùng
đang còn say ngủ.
Pc. 288
Tử thần xuất hiện,
thì không phải cha,
cũng không phải con,
không phải họ hàng,
không phải bạn thiết,
không có một ai
lúc ấy có thể
che chở cho ta.

21. Tạp lục

Pc. 290
Phải biết từ bỏ
hạnh phúc nhỏ nhặt
mới có thể có
hạnh phúc lớn lao.
Người trí thực hiện
hạnh phúc lớn lao
là do từ khước
hạnh phúc nhỏ nhặt.
Pc. 291
Kẻ nào gây ra
đau thương cho người,
dụng ý mưu đồ
hạnh phúc cho mình,
kẻ ấy không thể
thoát được hận thù,
vì bị cuốn vào
guồng máy phức tạp
của sự hận thù.
Pc. 292
Đáng làm không làm,
không đáng lại làm;
kẻ này tự kiêu,
thiếu sự chủ yếu
"nhớ nghĩ chính xác",
nên chỉ tăng thêm
sơ hở, sai lầm.
Pc. 296
Đệ tử của Phật
thường tự thức tỉnh,
bằng cách ngày đêm
nhớ nghĩ đến Phật.
Pc. 300
Đệ tử của Phật
thường tự thức tỉnh,
bằng cách ngày đêm
nhớ nghĩ bất hại.
Pc. 301
Đệ tử của Phật
thường tự thức tỉnh,
bằng cách ngày đêm
nhớ nghĩ chỉ quán.
Pc. 302
Vui sống xuất gia
đã là việc khó,
sinh sống tại gia
cũng là việc khó.
Sống chung với kẻ
nghịch chí là khổ,
sống nổi chìm theo
luân hồi là khổ.
Vì vậy, chớ có
sống theo luân hồi,
và cũng không nên
chạy theo cái khổ.

22. Địa ngục

Pc. 306
Ăn nói gian dối,
làm bậy rồi chối,
hai việc như vậy
chết rồi đồng đẳng
sinh vào địa ngục,
vì đời sống này
dầu được làm người
việc làm lại hèn.
Pc. 309
Có bốn tai họa
dành cho những kẻ
sống mà phóng đãng
mê vợ chồng người:
bị lãnh nguy biến,
bị ngủ không yên,
bị chịu nhục mạ,
bị xa địa ngục.
Pc. 310
Gian dâm vốn hay
phát sinh tội ác,
sa vào cảnh khổ.
Lạc thú giác quan
của đôi nam nữ
đang lo sợ kia
quả là quá ngắn,
mà sự trừng phạt
xuất từ mọi phía
lại quá nặng nề.
Vậy chớ gian díu
với vợ chồng người.
Pc. 312
Hành động buông thả,
giới hạnh hoen ố,
phạm hạnh hoài nghi
cả ba điều này
không thể đem lại
thành quả lớn lao.
Pc. 313
Việc gì cần làm
thì phải làm đi,
làm hết sức mình;
chứ đã xuất gia
mà sống buông thả,
thì chỉ vung thêm
cát bụi vào đời.
Pc. 317
Không đáng sợ hãi
mà lại sợ hãi,
và đáng sợ hãi
lại không sợ hãi,
vì thấy và biết
sai lầm như vậy
nên những kẻ ấy
đi vào chỗ dữ.
Pc. 319
Việc mà lầm lỗi
thì biết lầm lỗi,
việc không lầm lỗi
biết không lầm lỗi,
vì thấy và biết
chính xác như vậy,
nên những người này
đi vào chỗ lành.

23. Con voi

Pc. 320
Như Lai như thể
con voi to lớn
ở giữa chiến trận.
Voi ấy hứng chịu
bao nhiêu tên đạn.
Như Lai đồng dạng
chịu đựng bao nhiêu
phỉ báng thóa mạ.
Vì lẽ cuộc đời
vốn có lắm kẻ
sống vô tư cách
Pc. 321
Voi ngựa thuần hóa
thì được trọng dụng.
Người mà thuần hóa
là người hơn người,
ở chỗ chịu được
bao nhiêu phỉ báng.
Pc. 322
Con lừa thuần hoá
con ngựa thuần chủng
con voi oai nghiêm,
tất cả rất quí.
Nhưng quí hơn hết
là người thuần hóa.
Pc. 324
Con voi Tài hộ
trở nên bất trị.
Xích lại thì nó
phản ứng, bỏ ăn.
Vì nó nhớ đến
rừng nhà của nó
nơi có mẹ nó.
[Con người càng phải
như voi Tài hộ,
lúc nào cũng biết
thương nhớ lo liệu
cho mẹ cho cha].
Pc. 326
Trước đây tâm ta
buông thả chạy theo
bao thứ dục vọng,
tình yêu, lạc thú.
Nhưng ta ngày nay
vận dụng "chánh niệm"
chế ngự lấy nó,
thuần hóa lấy nó.
Như viên quản tượng
buộc giữ nó lại,
khắc phục lấy nó,
con voi hung hăng.
Pc. 327
Thích thú chánh niệm
mà giữ tâm mình.
Ví như con voi
hăng lên mà vọt
khỏi chỗ bùn sâu,
các người cũng vậy,
ráng lên mà thoát
cho khỏi chỗ dữ.
Pc. 328
Gặp được người bạn
cẩn trọng, xứng đáng,
phong cách nghiêm chỉnh
ứng phó nguy khốn,
thì hãy chung sống
với bao hoan hỷ.
Pc. 331
Vui thay,
gặp được bạn tốt
trong lúc cần thiết!
Vui thay,
sống biết vừa đủ
với ít đồ dùng!
Vui thay,
khi chết mà có
phước báu đã làm!
Vui thay,
bao nhiêu khổ lụy
đã hết trọn vẹn!
Pc. 332
Vui thay hiếu dưỡng mẹ!
Vui thay hiếu dưỡng cha!
Vui thay kính tu hành!
Vui thay kính hiền thánh!
Pc. 333
Vui thay, đến già
mà vẫn giữ giới!
Vui thay, sống với
đức tin vững chắc!
Vui thay, thu hoạch
tuệ giác trong sáng!
Vui thay, không có
hành động bất thiện!

24. Ái dục

Pc. 336
Sống trong đời này
mà thắng được cái
khó thắng bậc nhất
đó là ái dục,
thì bao sầu khổ
tự rời người ấy
như thể nước giọt
không dính lá sen.
Pc. 341
Đời ưa ái dục,
lại ưa dục lạc.
Ái dục cuồn cuộn
tràn khắp giác quan,
tràn đến đối tượng
các giác quan ấy.
Thiên trọng dục lạc,
lùng kiếm dục lạc,
nhưng cái họ được
không là dục lạc,
mà là già yếu
một cách vô ích.
Pc. 345 – 346
Cùm xiềng bằng sắt
bằng cây bằng dây,
bậc Giác Ngộ nói
chưa phải bền chắc.
Thế nhưng bậc ấy
nói rằng ham muốn
vàng ngọc của quí,
ham muốn vợ chồng,
ham muốn con cái,
tơ tóc ái dục
ham muốn như vậy
mà ràng buộc ta,
thì chắc hơn nhiều.
Vì nó rị xuống,
ngó như lỏng lẻo
mà thật khó gỡ!
Người trí vì vậy
phải cắt cho đứt:
Phải thoát gia đình,
phải từ dục lạc.
Pc. 352
Các vị trọn vẹn
thoát ly ái dục
thì không còn nữa
vướng mắc gì hết.
Các vị lão thông
về cách hùng biện
với sự thông suốt
chủ đề, nội dung,
ngữ văn, thuyết trình;
trong sự thuyết trình
còn rành hai sự:
hệ thống tư tưởng,
hiệu quả trình bày.
cái thân đời này
đã là cuối cùng.
Vị ấy đáng được
tôn xưng Đại Giác,
hay Đại trượng phu.
Pc. 354
San sẻ về Pháp
hơn mọi san sẻ!
Hương vị của Pháp
hơn mọi hương vị!
Thỏa dạ về Pháp
hơn mọi thỏa dạ!
Thắng được ái dục
thì thắng đau khổ!

25. Tỳ kheo

Pc. 362
Chế ngự tay chân,
chế ngự lời tiếng,
chế ngự tư tưởng;
thích thú đề mục
của mình chỉ quán;
độc thân, biết đủ.
Đó, vị Tỷ kheo.
Pc. 363
Tỷ kheo thuần hóa
miệng lưỡi của mình,
nói năng vừa phải,
không nhiễm cao ngạo,
trình bày về Pháp
thì với lời tiếng
khả ái, dịu dàng.
Pc. 365
Tỷ kheo không khinh
cúng phẩm mình được,
cũng không ham thích
cúng phẩm người có -
Ham thích như vậy
làm sao định tâm?
367
Tâm lý vật lý
của chính bản thân.
Tỷ kheo cũng không
nắm làm tự ngã
và của tự ngã.
Không hề thắc mắc
hay nghĩ ngợi gì
cái mình không có.
Như thế xứng đáng
là vị Tỷ kheo.
Pc. 368
Tỷ kheo trú ở
trong tâm từ bi
thì rất đẹp dạ
với Pháp Phật dạy,
đạt được cái vui
an bình trong lắng,
thể hiện trạng huống
siêu thoát toàn bộ
hiện tượng chuyển biến.
Pc. 369
Chư vị Tỷ kheo,
hãy tát cho hết
nước trong cái thuyền
bản thân chư vị.
Thuyền bản thân này
không còn có nước
thì nhẹ, đi mau.
Hễ tát hết nước
tham vọng phẫn nộ,
chư vị dễ dàng
lướt đến Niết bàn.
Tỷ kheo vốn đã
ở chốn thanh vắng,
tâm trí đã được
giữ cho trong lắng,
thì hãy tịnh quan
về Pháp của Phật,
mà thụ hưởng lấy
cái vui siêu phàm.
Pc. 375
Tỷ kheo có trí
thì ngay ở trong
cái cuộc đời này
mà tu tập theo
những tiết mục chính
sau đây của Pháp:
phòng vệ giác quan,
tự biết vừa đủ,
giữ gìn giới luật
đúng như Giới kinh,
gần gũi các vị
chân thiện tri thức,
sống rất tinh tiến
theo cách "chánh mạng".
Pc. 376
Giao tiếp với người
thì khéo thân thiện,
cử chỉ thì giữ
cho thật thanh nhã.
Do vậy mà dược
lắm sự hoan hỷ,
và cũng tránh dược
lắm cái phiền toái.
Pc. 377
Hoa lài tự rụng
những cành hoa héo,
cũng là như vậy,
các vị Tỷ kheo!
Hãy tự rơi rụng
tham lam giận dữ.
Pc. 380
Hãy tự nương dựa
vào bản thân mình!
Hãy tự quay lại
nơi bản thân mình!
Hãy tự thuần hóa
như luyện tuấn mã!
Pc. 382
Tỷ kheo nhỏ tuổi
mà biết cần cù
thực hành lấy Pháp
của Như Lai dạy,
thì Tỷ kheo ấy
soi sáng cuộc đời
như thể vầng trăng
chiếu sáng vằng vặc.

26. Tịnh hạnh

Pc. 384
Người nào thường xuyên
sống trong "chỉ quán",
thì sẽ đạt đến
"bờ bến bên kia".
Người này Như Lai
gọi là một vị
Tịnh hạnh có trí
cắt hết thắt buộc.
Không bờ này.
Không bờ kia
Không hai bờ.
Giải trừ khổ não,
cởi mở thắt buộc.
Người này Như Lai
gọi là Tịnh hạnh.
Pc. 386
Tu tập chỉ quán,
sống không bụi trần,
phận sự đã xong,
sơ hở không còn,
đạt đích tối thượng
người như thế này
Như Lai mới gọi
là vị Tịnh hạnh.
Pc. 389
Chớ có hành hung
một vị Tịnh hạnh!
Một vị Tịnh hạnh
chớ có giận lại!
Hành hung Tịnh hạnh
đã đáng xấu hổ.
Tịnh hạnh giận lại
càng xấu hổ hơn.
Pc. 391
Cả thân miệng ý
đều không làm ác.
Cả ba nghiệp này
cùng được đề phòng.
Người này Như Lai
gọi là Tịnh hạnh.
Pc. 397
Phải là một người
thắt buộc cắt hết,
lo sợ không còn,
không còn dính mắc,
Như Lai mới gọi
là vị Tịnh hạnh.
Pc. 399.
Ai không tức giận,
chịu đựng nhục mạ,
hành hung, trừng phạt;
lấy chính sức mạnh
của đức Nhẫn này
mà làm quân lực;
người này Như Lai
gọi là Tịnh hạnh.
Pc. 401
Như thể nước giọt
rơi trên lá sen,
hay như hạt cải
đặt đầu mũi kim,
thì không thế nào
dính mắc cho được:
không nhiễm ái dục
cũng là như vậy,
Như Lai mới gọi
là vị Tịnh hạnh.
Pc. 403
Trí tuệ xuất sắc,
biết rành thế nào
là đường chính xác,
biết rõ thế nào
là đường sai lầm;
bản thân người này
thì đã đi đến
cái đích tối thượng,
Như Lai mới gọi
là vị Tịnh hạnh.
Pc. 404
Không sống hỗn tạp
với cả hai phía
thế tục, tu sĩ;
mà sống đơn độc,
sống không ham muốn.
Ai sống như vậy
Như Lai mới gọi
là vị Tịnh hạnh.
Pc. 405
Không hề sử dụng
khí giới dao gậy
đối với sinh linh
bất cứ mạnh yếu;
cũng không tự mình
hay là bảo ai
sát hại sinh mạng
hay gây thương tổn.
Ng��ời này Như Lai
mới gọi Tịnh hạnh.
Pc. 406
Sống mà thân thiện
giữa người đối nghịch,
sống mà ôn hòa
giữa người hung hãn,
sống không lưu luyến
giữa người bám víu.
Người này Như Lai
mới gọi Tịnh hạnh.
Pc. 407
Tham vọng, phẫn nộ,
kiêu căng, phỉ báng,
tất cả rơi rụng
như là hạt cải
rơi khỏi mũi kim:
người mà như vậy
Như Lai mới gọi
là vị Tịnh hạnh.
Pc. 408
Nói năng thanh nhã
hiền hòa, xây dựng,
nhất là chân thành,
không xúc phạm ai.
Người này Như Lai
gọi là Tịnh hạnh.
Pc. 410
Không tham vọng gì
ở thế giới này,
không tham vọng gì
ở thế giới khác:
người nào siêu thoát
tham vọng như vậy,
thì được Như Lai
gọi là Tịnh hạnh.
Pc. 412
Ngay cuộc đời này
mà đã vượt lên
trên mọi lãnh vực
ác cũng như thiện,
không còn tất cả
bao loại vướng mắc.
Cái người trong sáng,
biểu thị trạng huống
không có ưu phiền
không có bụi bặm,
người ấy Như Lai
gọi là Tịnh hạnh.
Pc. 414
Vượt được cuộc đời
lầy lội gập ghềnh,
vượt qua biển cả
luân hồi mù quáng,
vượt đến "bến bờ
chỉ quán bên kia ",
siêu thoát vướng mắc
thể hiện Niết bàn,
người ấy Như Lai
gọi là Tịnh hạnh.
Pc. 417
Xa sự buộc ràng
ở dưới trần thế,
tách sự buộc ràng
ở trên thiên đàng,
giải trừ toàn diện
các dạng buộc ràng,
như thế Như Lai
mới gọi Tịnh hạnh.
Pc. 418
Bỏ điều mình ưa,
bỏ cái mình ghét,
thể hiện trọn vẹn
trạng thái Mát mẻ,
loại trừ hoàn toàn
"dữ kiện tái sinh":
Cái bậc đại hùng
chiến thắng như vậy
Như Lai mới gọi
là vị Tịnh hạnh.
Pc. 422
Là bậc Vô úy,
là bậc Đại triết,
là bậc Siêu thắng,
là bậc Thanh khiết,
là bậc Thạc ngộ -
bậc nào như vậy
Như Lai mới gọi
là vị Tịnh hạnh.
Pc. 423
Biết rõ bao nhiêu
đời sống của mình;
thế giới an lạc
thế giới thảm não
cũng hiện rõ ràng
ở trong tuệ giác;
bậc Đại Mâu ni
tròn đầy như vậy,
xứng đáng Như Lai
gọi là Tịnh hạnh.

San sẻ

Chúng con nguyện đem
phước báu tụng niệm
Pháp cú mầu nhiệm
của đức Thế tôn,
hồi hướng san sẻ
cho hàng chư thiên
để thêm phước lực
hộ trì diệu pháp
hộ vệ thế gian
trang nghiêm quốc độ.
Hồi hướng san sẻ
phước báu của Pháp
cho cả nhân loại
và bao sinh linh
cùng bớt khổ não
cùng thêm yên vui.
Hồi hướng san sẻ
cha mẹ, sư trưởng,
thiện hữu, thí chủ,
cùng hưởng phước này.
Hồi hướng san sẻ
kẻ thù người thân,
hoan hỷ tha thứ
coi nhau anh em.
Hồi hướng bản thân,
san sẻ tha nhân,
cùng sống theo Pháp
trên cuộc đời này,
cùng nhau kết thành
"bà con Phật Pháp",
phục vụ Tam bảo
tạo bao phước báu.
Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Thế Tôn,
nguyện cầu Thế Tôn
từ bi gia hộ.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16025)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3711)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6083)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6277)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3973)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8313)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5597)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15590)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10829)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7917)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]