Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tự Hào Là Con Của Phật Với Nền Tảng Đạo Hiếu Cao Vời

29/08/202008:22(Xem: 7405)
Tự Hào Là Con Của Phật Với Nền Tảng Đạo Hiếu Cao Vời

TỰ HÀO LÀ CON CỦA PHẬT
VỚI NỀN TẢNG ĐẠO HIẾU CAO VỜI

            Trên lộ trình tu học, tìm hiểu Phật pháp, và tự đặt mình vào cương vị một người con Phật, đôi khi sự tự hào không chỉ hỗ trợ tinh thần vững tiến mà còn giúp thêm cho ý chí hanh thông, vượt qua nhiều chướng duyên, trong lý tưởng mình đã chọn. Trong thời đại bùng nổ thông tin đa chiều như hiện nay, kiến thức và sự tự hào ấy được chắp thêm nhiều đôi cánh thêm bay cao, bay xa.

                Đến với Phật đạo trong truyền thống của gia đình, không bằng những nhân duyên ngoại cảnh đưa đầy. Đôi khi ngoảnh lại, bằng những kiến thức được dung nạp trong quá trình tiếp cận và tu học, niềm tự hào như được nhân lên gấp bội , ít nhất qua lăng kính Phật giáo là một tôn giáo, gia đình và mình đã chọn không sai, không lỗi đạo với quê hương và đạo pháp. Rất nhiều điều như thế mà gia đình, bản thân và các bạn hữu chung quanh đều cảm nhận được như thế qua từng bài học, từng sự kiện xã hội nhận thức được. Không phải ngẫu nhiên mà giới nghiên cứu lịch sử Phật giáo hay nhắc đến câu nói của nhà bác học vật lý Albert Einstein ( 1879 – 1955 ) «   Nếu có một tôn giáo đáp ứng được những nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không đòi hỏi phải xét lại mình để cập nhật với những khám phá gần đây của khoa học. Phật giáo không cần từ bỏ quan điểm của mình để đi theo khoa học, vì nó bao gồm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học »( If there is any rehigion that would cope with modem scientific Scientific needs,it would be Buddhism. Buddhism riqires no revisiontokeep it up to date withrecent scientific fidings. Buddhism needs nosurrender its view to science, because it embraces science as well as goes beyond science) – nguồn :”Quan điểm của Albert Einstein về Đạo Phật- tân vật lý và vũ trụ luận”- Chương trình “Mỗi ngày một cuốn sách” của VTV1.

Và, như chúng ta đã biết và đã thấy. Từ trong lịch sử hai ngàn năm có mặt trên mãnh đất này, từ trong nếp sống cộng đồng, quan điểm sống và để sống; cho đến từng câu nói, câu ca dao của dân gian.v..v… Phật giáo đã ghi đậm dấu ấn , tồn tại như nào . Những thành quả đó Phật giáo không tự “sáng tác “ ra để tự ca ngợi (giới bình dân thì xác đáng hơn khi chỉ định : tự sướng! ) hay để chứng minh sự có mặt và đồng hành với dân tộc; mà tự nơi cuộc sống ấy phản hồi những dư âm đẹp dành riêng cho Phật giáo. Nhìn chung quanh dễ thấy ngay người ta đã chật vật, xoay sở trăm chiều để đổi mới, để chỉnh sửa, để bổ sung v..v… cho phù hợp với cuộc sống, cho phù hợp với xã hội văn minh để không phải mang tai tiếng sai trái với đà phát triển của thời đại khoa học vũ trụ; mới thấy giá trị chân lý bất di bất dịch của Phật giáo tuyệt vời như thế nào.

           Với quyển sách nhỏ bỏ túi “ Để trở thành một Phật tử”, chỉ với 60 câu hỏi và đáp ngắn gọn, tác giả- cố Hòa thượng Thích Trí Thủ ( 1909 – 1984 ) đã có nói đến điều này rất ý nhị nhưng sâu sắc qua câu hỏi đáp số 7 và số 8 như sau :

Hỏi :làm lành lánh dữ lẫn những điều mà bất luận tôn giáo hay học thuyết nào cũng dạy, đâu có riêng gì Phật giáo?

Đáp: Vâng, đúng thế, Nhưng nói là một việc, còn có thực hành đúng như lời nói được hay không, lại là một việc khác. Đó là chưa nói đếm việc làm lành, lánh dữ ấy có hợp lý hay không, vì nếu người đế xướng lên một lý thuyết mà chưa phải là một đấng giác ngộ chân lý thì lý thuyết ấy khó mà hoàn toàn được.

Hỏi: bằng chứng đâu để biết lý thuyết đúng và thực hành cũng đúng như lý thuyết?

Đáp :Cứ xem đời sống lịch sử của vị Tổ sáng lập Tôn giáo và lịch sử truyền bá của Tôn giáo ấy thì biết.

            Trong kho tàng Tam Tạng Kinh Điển với vô vàn những bài học, những lời dạy của Đức Phật, nói theo ngôn ngữ của y thuật, tất cả những vấn đề đưa ra luôn có đầy đủ yếu tố của một Y Vương, lập trình vững chắc, chỉ định rõ ràng; Khám bệnhĐịnh bệnh và phương pháp chữa bệnh. Lấy bài học đầu tiên của những bước chân hoằng hóa đầu tiên của Đức Phật là Tứ Diệu Đế, Khổ đế - Tập đế - Diệt đếĐạo đế. Đây là bài học tiêu biểu nhất của nhận định vừa nêu, để Phật giáo bước lên trên và ra khỏi thói thường của sự ỷ lại phép mầu đơn giản và cầu xin tiêu cực, trong khi đó lại không để lại bài học khả dĩ nào cho chính người bệnh.

Chỉ riêng vấn đề Hiếu đạo thôi. Một chữ Hiếu thôi, đức Phật cũng tốn khá nhiều phương tiện và tùy thuận mỗi nghiệp duyên mà giàng giải cho thế nhân, cho các cõi trời – người tận tường. tại sao phải Hiếu, và phải báo Hiếu như thế nào? Chữ Hiếu trong Phật giáo không phải là một khẩu hiệu nghèo nàn , đứng biệt lập để biểu hiện đó là chân lý “cho có” để làm an tâm tín đồ . Chữ Hiếu trong Phật giáo còn là một chỉ định mang tính tôn xưng cao cả , tương đồng và phù hợp với đạo lý Phương Đông ( Tam Giáo Đồng Nguyên ) để thế nhân không ngần ngại xác định : Đạo Phật là đạo Hiếu ! Điều đó là hẳn nhiên. Không hẳn nhiên sao được khi quả vị cao nhất là Tâm Phật cũng được đem ra ví sánh với công đức Mẹ Cha ( Tâm Hiếu là Tâm Phật, hạnh Hiếu là hạnh Phật - Gặp thời không có Phật, thờ Cha Mẹ tức thờ Phật – Kinh Đại Tập). Thậm chí trong một hoàn cảnh bức bối, không lối thoát nào đó, người ta cũng có thể nương theo câu hát cổ nhạc “ Tu đâu cho bằng tu nhà/ Thờ Cha Kính mẹ hơn là đi tu” của cố soạn giả Viễn Châu ( trong bài “Tu là Cội Phúc “). Nhân tiện đây xin được khẳng định lại , đó là câu hát của cố soạn giã Viễn Châu chứ không phải ca dao hay truyền khẩu như nhiều người vẫn nhầm tưởng, vì như đã thưa, câu ca đó chỉ có thể ứng dụng cho một hoàn cảnh nhân vật trong bài hát, chứ thật ra nội hàm vẫn chưa đúng lắm và còn khoảng cách rất xa với Phật pháp. Phật giáo vượt lên trên lăng kính tôn giáo một cách cao cả nhưng rất trần gian như thế mà chắc rằng chưa thấy có ở một tôn giáo khác.

Ảnh 1-Trời Đao Lợi 2
Ảnh 2 -Thuyết pháp_cho_vua_tinh_phan_ đẹp
Ảnh 3 - mahapajapati-gotami - ma ha ba Xà ba đề

                   Khi Đức Phật nói về chữ Hiếu, ắt hẳn cuộc đời Ngài cũng như trong vô lượng tiên kiếp hẳn đã thể hiện nét tiểu biểu đó qua rất nhiều hình tướng, trạng thái. Ngay trong kiếp sinh tử luân hồi cuối cùng làm con của Thánh Mẫu Ma Da, Ngài vẫn với tâm từ đại Hiếu ấy hành xử rất đúng mực. Khi thành đạo quả vô thượng rồi Ngài vẫn mang tâm từ đại Hiếu ấy vào cõi trời Đao Lợi để thuyết giảng cho Thánh Mẫu hầu làm tròn một bổn phận của thế gian (Phật thăng Đao Lợi vị mẫu thuyết pháp kinh )( Ảnh 1- 2 ) . Hay như Ngài đã khởi thân vượt ngàn dặm xa, trở về hoàng cung thăm lại phụ thân, và khi phụ thân qua đời Ngài đẽ ghé một bờ vai giải thoát của mình khiêng chiếc quan tài đến nơi trà tỳ rất tròn đạo nghĩa ( Ảnh 3 ). Không chỉ bấy nhiêu đó thôi mà còn một hình ảnh xúc động khác nữa khi Ngài cũng vì tâm Từ Đại Hiếu ấy chấp nhận cho nền chánh pháp sớm mạt độ trước 500 năm để thu nhận bà Di Mẫu Kiều Đàm, người đã từng bồng ẳm, nuôi nấng Thái Tử tất Đạt Đa khi mới vừa 7 ngày tuổi cho đến lúc lên lưng ngựa kiền Trắc, cùng Xa Nặc lướt qua mấy nẻo bụi hồng tím cầu chân lý, cùng hàng trăm vị khác vào tăng đoàn tu theo Ngài. Chữ Hiếu đối với Đức Phật to lớn đến dường ấy . Tâm Từ Đại Hiếu đó còn được thể hiện qua hàng đại đệ tử, đồ chúng của Ngài lúc còn hiện bày sinh tướng hay khi đã nhập diệt cho đến tận ngày nay.

Khi đức Phật nói về chữ Hiếu. Như đã nói, đó không phải là khẩu hiệu mỏng manh chỉ để trang điểm làm an lòng tín đồ, mà là một phương thức sống động và còn là trách nhiệm của một người đệ tử Phật. Đối với người sơ cơ hay kẻ mới học Phật sẽ dễ dàng tìm thấy trong Kinh Vu Lan Bồn hay Kinh Báo Hiếu. Qua đó, Đức Phật đã dạy cho chúng ta biết thế nào là Hiếu, làm sao phải Báo Hiếu, rất rõ ràng. Với những ai có điều kiện tìm hiểu sâu hơn thì ngoài hai bộ kinh thông dụng ấy còn có nhiều bộ kinh khác đức Phật nói về chữ Hiếu trong suốt hơn 45 thuyết hóa của Ngài. Đại để đó là các bộ kinh như : Kinh Đại tập, Kinh Nhẫn Nhục, Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Tập Bảo Tạng, Kinh Tăng Chi II A, Kinh Trường A Hàm, Kinh Trung Bộ, Kinh Tương Ưng, Chi Bộ Kinh, Kinh Suttanipata, Chính 2/601, Cảnh Sách, Hạnh Phúc Kinh, Vạn 35/154].v…v…Có những bài kinh với nhiều câu nói rất hay được nhiều người nhắc đến như :

  • Phạm Thiên, Này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha.Các đạo sư ngày xưa. Này các tỳ Kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Đáng được cúng dường, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. (Tăng Chi II A )
  • Hờ trời đất quỷ thần, không bằng có hiếu với cha mẹ, vì cha mẹ là vị thần minh cao nhất trong các thần minh ( Kinh Tứ Thập Nhị Chương ).
  • Làm con đới với cha mẹ, khi đem vật dụng cho cha mẹ, dù nhỏ đi nữa thì được phước vô lượng. Khi làm điều bất thiện đối với cha mẹ, dù chỉ một chút thì tội cũng vô lượng.(Kinh Bảo Tạng ).
  • Phụng dưỡng cha mẹ là vận may tối thượng ( hạnh Phúc Kinh )
  • Các thầy tỳ Kheo, có hai vị Phật sống đang sống trong nhà các ngươi, đó là cha và mẹ (Kinh Vạn 35/154A ).
  • Các người nghĩ như thế nào, này các Tỳ Kheo? Cái gì là nhiều hơn? Sữa mẹ mà các ngươi đã uống, trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài, hay là nước trong bốn biển ? Cái này nhiều hơn, này các Tỳ Kheo, tức là sữa mẹ các ngươi đã uống trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài, chớ không phải nước trong bốn biển ( Kinh Trường A Hàm ).
  • Người nào theo thường pháp/ Nuôi dưỡng mẹ và cha/ Chính do công hạnh này/ Nhờ vậy, bậc Hiền Thánh/Trong đời này tán thán/ Sau khi chết được sanh/Hưởng an lạc chư thiên ( Kinh Tương Ưng).

               Trên đây chì là tiêu biểu vài câu trích dẫn để bổ sung cho chủ đề bài viết trong rất nhiều đề tài về chữ Hiếu Đức Phật thuyết giảng trước sau trong quá trình thuyết giáo. Nhưng cũng sẽ không thừa khi xin được trích dẫn câu kinh nói về chữ Hiếu được xem là kinh điển nhất khi tìm hiểu Phật pháp, để nhân đó người xin nói thêm một chi tiết liên quan :

Điều thiện tối cao không gì hơn Hiếu

Điều ác tột cùng không gì hơn bất Hiếu

( Kinh Nhẫn Nhục )
14 điều răn của Phật

          Trong phần cuối bài viết này , người viết trích dẫn câu kinh nổi tiếng trên vì chợt nhớ đến một chi tiết về những cái «  Nhất » trong « mười bốn điều răn của Phật » ( tạm gọi là tấm liễn ) ( Ảnh 4 ) -do cố Hòa thượng Kim Cương Tử ( 1914 – 2001 ) sưu tập và được in, phát hành rộng rải trong các nhà sách cuối thập niên 80. Người viết đã tìm mua được trong nhà sách Fahasa ở đường Nguyễn Huệ Quận 1 năm 1988. Nói đến thời gian phát hành ai cũng hiểu và thông cảm được cho từ «  điều răn của Phật » được dùng làm tựa đề. Và câu thứ 6 trong 14 câu ấy chính là «  Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu ». Trong giai đoạn vừa mở cửa, nhìn thấy những gì liên qua đến Phật giáo ai cũng rất vui mừng và bỏ qua những sai sót nhỏ. Nhưng sự việc sẽ không nhỏ chút nào nếu đặt vào thời gian hiện tại khi chúng ta đã có đầy đủ các ba bệ và hệ thống tổ chức Giáo Hội PGVN chặt chẻ. Khi đó, tấm liễn 14 điều Răn Của Phật này gây sốt thật sự và ai cũng muốn tìm mua cho bằng được để treo ở trong nhà mình vì ý nghĩa quá súc tích và sâu sắc. Tất nhiên lòng tự hào của mình cũng hân hoan theo không kém và luôn thầm cảm ơn, ngưỡng mộ chư vị đã có công làm ra bảng chữ như vậy. Khi cơn sốt đang ở cao trào thì có vài ý kiến của các vị từng đi Ấn, đi Đài hay đi Trung nói rằng các vị cũng từng thấy một vài chùa bên các xứ đó có treo những tấm bảng có nội dung tương tự và cho đó là của Trung Quốc ! Rất lạ lá ít nghe ai nói rằng 14 câu « nhất » ấy được chư vị tôn túc uyên thâm Phật học, rút ra từ các lời kinh Phật dạy và đúc kết thành những câu nói mang tính xác quyết, quan trọng nhất của đời người cho hậu thế soi chung . Thí dụ như câu số 6 đã trích «  Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu » phải chăng được các vị chiếc xuất từ trong Kinh Nhẫn Nhục « Điều ác tột cùng không gì hơn bất hiếu » Hoặc từ trong kinh Báo Hiếu – «  Trong năm đại tội định ra/ Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay »? Còn lại những câu khác chắc chắn rằng cũng sẽ không nằm ngoài kinh tạng Phật giáo mà với điều kiện và khả năng của người viết còn hạn chế, chưa thể sưu tầm ra hết được. Nhưng xã hội ngày nay, không kể người có hay không tu học cũng đều rất cần những thông tin như tấm liễn. Những điều tự hào đáng tự hào vì tất cả những gì Phật giáo có và cống hiến cho xã hội là rất thật, rất hữu ích, không cần gượng ép hay áp lực để tạo ra, nhất là cố tạo ra cái mình không có để tồn tại .



Mùa Vu Lan 2564 – 2020

DƯƠNG KINH THÀNH


***

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/08/2020(Xem: 6006)
Giáo sư Lewis Lancaster sinh ngày 27 tháng 10 năm 1932, Giáo sư danh dự của Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á (East Asian Languages and Cultures) tại Đại học California, Berkeley, Hoa Kỳ, đã từng là Chủ tịch, Giáo sư phụ trợ, Chủ tịch Hội đồng xét Luận án (Chair of the Dissertation Committee) của đại học University of The West (California) từ năm 1992. Ông còn là Giáo sư Danh dự của khoa Ngôn ngữ Đông Á (East Asian Languages), Khoa trưởng Khoa Phật học (Buddhist Studies) thuộc đại học UC Berkeley; và đã từng giữ chức vụ Viện trưởng (2004-2006).
02/08/2020(Xem: 6334)
Trong khoảng chục ngày nay, các báo Việt Nam đưa tin toàn chuyện dịch bệnh CoViD-19 , vì nó đang đe dọa trở lại sau một thời gian 3 tháng tạm thời im ắng. Ngay lúc này, giở ra đọc lại sách Chớ quên mình là nước - Tạp văn, khảo luận về nước và môi trường của Văn Công Tuấn mà tôi đã được tác giả gởi tặng từ một tháng trước, ý thức về tầm quan trọng đối với môi trường sống của tôi càng trở nên đậm nét.
02/08/2020(Xem: 8487)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì một mục đích duy nhất làm cho tất cả chúng sanh được giác ngộ, thoát khỏi khổ đau được an lạc giải thoát. Vì thế, trong kinh nói: “Như Lai thị hiện nơi cuộc đời này, là để xua tan bóng tối vô minh và chỉ cho nhân loại con đường đi đến sự đoạn tận của khổ đau”.
01/08/2020(Xem: 6184)
Cư sĩ Sandy Huntington sinh ngày 24 tháng 2 năm 1949, ông sinh ra và trưởng thành tại East Lansing, Michigan, một thành phố thuộc quận quận trong tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ và học đại tại bang Michigan. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông đi du lịch đến Na Uy, học tiếng Na Uy và bắt đầu say mê học ngôn ngữ và văn học suốt đời.
01/08/2020(Xem: 5160)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.Từ thời cổ xưa con người sống trong hang đá rừng rậm chưa có chữ viết chưa có lời nói, nên con người phát biểu tình cảm hay ý muốn bằng âm thanhgầm gừ,ậm ừ … từ trong cổ họng, hoặcbiểu lộ bản năng cảm xúc bằngánh mắt hay cử chỉ quơ tay động chân.Đời sống của con người lúc ấy không mấy khác với đời sống của thú rừng hoang dã.
29/07/2020(Xem: 6744)
Tại Việt Nam, nơi có dân số khoảng 97 triệu nhân khẩu, Vương quốc Campuchia với dân số khoảng 16,24 người, đều không có trường hợp tử vong do đại dịch Virus corona chủng mới. Tại Vương quốc Thái lan, nơi có dân số 70 triệu người, có 58 người tử vong do nhiễm Covid-19 (Lưu ý: So với Vương quốc Anh, nơi có dân số gần 66 triệu người, đã có hơn 45.000 người chết). Về việc phòng chống đại dịch Virus corona, tại sao các quốc gia nêu trên lại hoạt động phòng chống đại dịch tốt hơn các quốc gia khác trên thế giới? Họ đều là những quốc gia Phật giáo. Sự thành công của công tác phòng chống đại dịch hiểm ác này có liên quan gì đến văn hóa Phật giáo bản địa không?
10/07/2020(Xem: 8411)
Hồi tháng Giêng năm nay, ông Mohan Paswan, một tài xế xe thồ tuk-tuk, bị thương trong một tai nạn giao thông. Ông tạm trú ở Gurugram, ngoại ô thủ đô New Delhi, nơi ông suốt ngày hành nghề chở khách bằng chiếc xe cà tàng có gắn máy. Tiền kiếm được ông gửi về quê nuôi vợ con ở Bihar, tiểu bang miền đông Ấn Độ, cách xa đến 700 dặm (trên 1.100 km.) Sau tai nạn, ông Paswan không thể tiếp tục chạy xe để kiếm tiền, không những thế ông cần sự săn sóc. Cô con gái ông, Jyoti Kumari, 15 tuổi, nghe tin liền nhảy lên tàu lửa đi tìm cha rồi ở cạnh ông để chăm lo. Thế rồi cơn đại dịch xảy ra.
09/07/2020(Xem: 7356)
Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành là mục tiêu tu hành: Không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Những điều này là căn bản làm người, là nền tảng tu hành, và là tiêu chuẩn của chánh quyền. Sáu Đại Tông Chỉ này là sáu con đường sáng. Nếu nhớ được sáu đại tông chỉ này, quý vị có thể thành Phật. Tôi đưa ra sáu đại tông chỉ này cho những người muốn thành Phật, thành Bồ Tát, muốn thành Thanh Văn, A La Hán. Đây là những tông chỉ quan trọng nhất. Nếu thực hành được, quý vị có thể dùng suốt đời, mà vẫn không tận dụng hết được!
08/07/2020(Xem: 6500)
Không còn nghi ngờ gì nữa, khẩu trang đã đóng một vai trò trung tâm trong các chiến lược đối đầu với dịch bệnh COVID-19 của chúng ta. Nó không chỉ giúp ngăn ngừa SARS-CoV-2 mà còn nhiều loại virus và vi khuẩn khác. Cũng không khó để nhận ra rằng khẩu trang đã và đang có xu hướng trở thành quà tặng, chương trình khuyến mãi của nhiều hoạt động kinh doanh. Chạy đua xu hướng "bán hàng tặng kèm khẩu trang", trên các website thương mại điện tử, nhiều gian hàng cũng đua nhau áp dụng hình thức kinh doanh này. Kết quả như thế nào? Nhiều gian hàng đã thấy được hiệu quả rõ rệt khi lượt khách đặt mua tăng mạnh, họ đã vượt qua cơn ế ẩm nhờ tặng kèm khẩu trang. Tương tự, các nhà hàng, tiệm nails, cửa hàng…đều đang theo xu hướng tặng khẩu trang cho khách, vừa để tuân theo trật tự “bình thường mới” trong xã hội, vừa đáp ứng nhu cầu bảo vệ sức khỏe của cả khách hàng và chính mình. Thử tưởng tượng, quý vị bước vào một tiệm nails nhưng quên mang theo khẩu trang, không sao, nhân viên mang cho quý vị m
05/07/2020(Xem: 5019)
Đức Đạt Lai Lạt Ma, Tenzin Gyatso, là lãnh tụ tinh thần và thế quyền của dân tộc Tây Tạng. Ngài sinh vào ngày 6 tháng Bảy năm 1935, trong một ngôi làng gọi là Taktser ở đông bắc Tây Tạng, trong một gia đình nông dân. Đức Thánh Thiện được công nhận vào lúc hai tuổi, phù hợp với truyền thống Tây Tạng, như tái sanh của người tiền nhiệm, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Đức Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Đức Phật Từ Bi, nguyện tái sanh để phụng sự loài người. Đạt Lai Lạt Ma có nghĩa là “Đại dương của trí tuệ.” Người Tây Tạng thường liên hệ đến Đức Thánh Thiện như Yeshe Norbu, “Viên ngọc ước,” hay đơn giản là Kundun, có nghĩa là “Thị Hiện.”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]