Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh tế học Hạnh phúc

24/06/202019:04(Xem: 3550)
Kinh tế học Hạnh phúc

Kinh tế học Hạnh phúc

(Happiness Economics)

 lotus_53

Tạo ra một cuộc sống Hạnh phúc cho riêng bản thân và gia đình là ưu tiên hàng đầu của hầu hết người Mỹ. Mặc dù những điều cụ thể làm cho chúng ta Hạnh phúc có thể khác nhau đối với mỗi chúng ta, nhưng tất cả chúng ta đều biết Hạnh phúc khi chúng ta trải nghiệm nó: Đó là cảm giác hài lòng chung mà chúng ta đang sống một cuộc sống có mục đích, thỏa mãn.

 

Nghiên cứu về Hạnh phúc bắt nguồn từ hơn 25 thế kỷ về trước (thế kỷ thứ 5 trước kỷ nguyên Tây lịch) đối với triết học Hy Lạp của Sokrates (470-399 Trước Tây lịch), một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), Platon, (427-347, trước kỷ nguyên Tây lịch, là một nhà triết học cổ đại Hy Lạp và những người khác, cũng như các tôn giáo phương đông, bao gồm Phật giáo và Ấn Độ giáo. Mặc dù các nhà triết học và các nhà lãnh đạo tôn giáo đã sử dụng các cách tiếp cận khác nhau, chủ đề chung để đạt được Hạnh phúc đã dâng trào để sống một cuộc sống Đạo đức, Hào phóng và Tri ân. Nói cách khác, con đường dẫn đến Hạnh phúc dựa trên mối liên hệ của chúng ta với người khác, không phải ở những thứ chúng ta sở hữu hoặc mong muốn.

 

Giống như nhiều giáo lý có nguồn gốc từ các nền văn hóa cổ đại, dường như những ý tưởng này là vô tận, và là cơ sở cho nhiều nghiên cứu hiện tại về chủ đề này. Nghiên cứu nguyên nhân Hạnh phúc của con người đã chuyển từ lĩnh vực triết học sang lĩnh vực nghiên cứu học thuật, và gần đây nhất là văn hóa đại chúng: Hàng chục cuốn sách và hàng trăm bài báo được xuất bản mỗi năm dạy chúng ta cách Hạnh phúc.

 

Dù muốn hay không, tiền đóng vai trò trung tâm trong xã hội Mỹ. Kiếm được nhiều hơn và sau đó tìm ra những gì để làm với nó đã ăn sâu vào văn hóa của chúng ta. Thật chẳng may, tiền đã trở thành chuẩn mực hàng đầu để đo lường “Thành công”.

 

Thay vì đánh giá trị của chúng ta dựa trên cách sống cuộc sống chúng ta và tác động của chúng ta đối với người khác, chúng ta ngày càng đo lường nó bằng quy mô tiền lương hoặc tài khoản ngân hàng của chúng ta.

 

Sau đó, không có gì ngạc nhiên khi nghiên cứu mối quan hệ giữa tiền bạc (thu nhập, tài sản tích lũy, tài sản, . . .) và Hạnh phúc đã  trở thành một chủ đề nóng đối với các nhà kinh tế học và hành vi tâm lý học.

 

Có nhiều tiền hơn làm cho chúng ta Hạnh phúc hơn? Đây là nơi mọi thứ trở nên thú vị. Khi được khảo sát về những gì sẽ cải thiện chất lượng cuộc sống của họ, người tiêu dùng thường xuyên nhất đề cập đến tình hình tài chính. Ngoại trừ những người có thu nhập cao nhất, hầu hết mọi người đều trả lời “nhiều tiền hơn”.

 

Ngay cả trong số các nhà nghiên cứu không đồng ý với một số điểm tốt hơn, vẫn có sự đồng thuận về một nguyên tắc cơ bản: Nói rộng ra, tiền có ảnh hưởng đến sự hài lòng chung của một người với cuộc sống.

 

Nghèo là xấu cho Hạnh phúc, và những người giàu có, nói chung Hạnh phúc hơn những người nghèo. Tuy nhiên, ngoài ra, mối liên hệ giữa Tiền bạc và Hạnh phúc là sắc thái.

 

Vào những thập niên 1970 của thế kỷ 20, một trong những nghiên cứu ban đầu trong lĩnh vực này được thực hiện bởi Giáo sư Kinh tế tại Đại học Nam California, Hoa Kỳ, nổi tiếng với lý thuyết kinh tế mang tên ông, Richard Easterlin (sinh năm 1926). Nghiên cứu này và sau đó trong 40 năm qua, bao gồm Daniel Kahneman, giáo sư tâm lý học thuộc Đại học Princeton, người thắng giải Nobel Kinh tế năm 2002, ông là người Mỹ gốc Israel. Các nghiên cứu của ông về tâm lý khi phán quyết và ra quyết định, kinh tế học hành vi và tâm lý học hưởng thụ, đã xem xét ảnh hưởng của mức sống tăng lên đối với Hạnh phúc của một hộ gia đình.

 

Kết quả cho thấy rằng mặc dù có một mối liên hệ giữa số tiền mà một gia đình kiếm được, và cảm giác Hạnh phúc của họ, nhưng đó không phải là một mối quan hệ mạnh mẽ. Cụ thể, sau khi mức thu nhập hộ gia đình tương đối thấp, thu nhập tương lai sẽ tăng Hạnh phúc, nhưng không nhiều.

 

Lý do chính trước tiên là mọi người chi tiền cho những thứ quan trọng nhất. . . thực phẩm, nơi ở, chăm sóc y tế, v.v. . . Một khi nhu cầu đó được đáp ứng, chi tiêu bổ sung cho những thứ xa xỉ chỉ tạo ra niềm vui bên lề.

 

Ví dụ, một hộ gia đình kiếm được 100.000 USD chỉ hài lòng hơn một chút so với một người kiếm được 50.000 USD. Ở mức thu nhập rất cao, thậm chí ảnh hưởng đến Hạnh phúc thấp.  Người Mỹ kiếm được 1 triệu USD chỉ Hạnh phúc hơn một chút so với những người kiếm được 100.000 USD. Nói cách khác, những bước nhảy lớn trong thu nhập chỉ mua một lượng nhỏ Hạnh phúc.

 

Vì vậy, khi bạn trở nên giàu có hơn, bạn cần nhiều tiền hơn để khiến bạn hài lòng hơn một chút. Hơn nữa ngay cả sự gia tăng nhỏ trong Hạnh phúc cũng phụ thuộc vào các yếu tố.

 

Trong bài viết tiếp theo của tôi, tôi sẽ nói về ba yếu tố đặc biệt quan trọng và đáng để thảo luận.

 

Tác giả John Spoto, người sáng lập Sentry Financial Planning in Andover and Danvers; Chứng nhận Kế hoạch Tài chính, đơn giản hóa những thách thức trong việc quản lý tài chính cá nhân của mỗi người. Cung cấp các đề xuất và hỗ trợ đơn giản trong việc triển khai, giúp mọi người có thời gian tập trung vào những gì thực sự quan trọng đối với mọi người.

 

Bài viết này chỉ dành cho mục đích thông tin chung và không nhằm cung cấp lời khuyên  cụ thể về các vấn đề tài chính, thuế hoặc pháp lý cá nhân. Vui lòng tham khảo ý kiến chuyên gia thích hợp liên quan đến tình huống cụ thể của bạn trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào.

 

Tác giả: John Spoto

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Lowellsun)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/02/2013(Xem: 6728)
Tỉ phú Hong Kong Yu Pang-Lin vừa qua đời ở tuổi 93, để lại di chúc hiến toàn bộ tài sản trị giá khoảng 2 tỉ USD cho hoạt động từ thiện. “Nếu các con tôi giỏi hơn tôi thì chẳng cần phải để nhiều tiền cho chúng. Nếu chúng kém cỏi thì có nhiều tiền cũng chỉ có hại cho chúng mà thôi” - ông Yu Pang-Lin khẳng định.
24/02/2013(Xem: 6153)
Trên thực tế, tất cả giáo huấn của Đức Phật đều nhằm giúp chúng ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Phương pháp tiếp cận thật sự rất hợp lý và thực tiễn.
17/02/2013(Xem: 10364)
AYYA KHEMA sinh năm 1923 trong một gia đình người Do Thái tại Bá Linh. Bà trốn khỏi Đức sang Tô Cách Lan (Scotland) năm 1938, cùng với 200 trẻ em khác. Sau đó được đoàn tụ với cha mẹ bà tại Trung Hoa. Khi chiến tranh thứ hai bùng nổ, bà và gia đình bị đưa vào các trại giam tù binh của Nhật. Sau chiến tranh, bà di cư sang Mỹ và lập gia đình tại đó. Vào khoảng đầu những năm 1960, bà chu du nhiều nơi khắp châu Á, và sau 10 năm hành thiền, bà bắt đầu dạy thiền và thuyết giảng về Phật giáo ở châu Âu, Bắc Mỹ và Úc.
14/02/2013(Xem: 4757)
Như thông lệ hằngnăm, ngày 4 tháng 2, 2013 vừa qua, Tổng Hội Phật Giáo Pháp đã gửi đến cho cácthành viên lá thư đầu năm số 13 nhằm tường trình các hoạt động của Tổng Hộitrong năm vừa qua. Nhìn vào sinh hoạt của một tổng hội Phật Giáo « nontrẻ » của một quốc gia Âu Châu, nơi mà Phật Giáo chỉ mới đặt chân vào chưađầy một thế kỷ quả là ta cũng có thể thấy được những điểm thật « mớimẻ » so với sinh hoạt của Phật Giáo tại các quốc gia Á Châu nơi mà PhậtGiáo đã bắt rễ từ lâu đời.
14/02/2013(Xem: 6900)
Khi tiếp cận với Kim Cang, tôi bỡ ngỡ và chưng hửng không ít. Lâu nay cứ nghe người ta đọc câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” như một câu thần chú để quên đi bao nội muộn phiền, rồi đọc Lục tổ Huệ Năng cũng thấy ngài kể chuyện một hôm đi bán củi, chỉ nghe lóm người ta đọc có câu kinh đó thôi mà đại ngộ, thế mà mình càng nghe càng mơ hồ, mù tịt.
13/02/2013(Xem: 5934)
Theo những nghiên cứu lâu dài và cẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
12/02/2013(Xem: 5040)
Lìa bỏ ngai vàng quyền uy, xem nhẹ công danh chức tước, thoát khỏi cảnh trần nhung hoa gấm lụa, vợ đẹp con ngoan, Thái tử Tất Đạt Đa vượt thành xuất gia học đạo, khai sáng chân lý tối thượng thừa, thành đạo Bồ đề, tựgiải thoát mình, đại từ phát nguyện cứu độ giải thoát hết thảy chúng sanh, xa lìa cảnh đời ô trọc phiền não, đạt đáo cứu cánh Niết Bàn tịch tịnh.
10/02/2013(Xem: 5381)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
09/02/2013(Xem: 4485)
Là người Phật tử chân chính, chúng ta biết buông xả những thói quen có hại cho người, vật nhưng phải luôn có trách nhiệm đối với gia đình và xã hội. Nhằm phát huy Bồ đề tâm chúng ta ngày càng thêm vững chắc, để ta có cơ hội trả ơn công lao sinh thành của cha mẹ, mà vẫn chu toàn mọi việc.
09/02/2013(Xem: 5503)
Cách đây gần 30 năm, ông Huang Funeng bị mù sau khi mắc căn bệnh thoái hóa mắt. Kể từ đó, vợ ông, bà Wei Guiyi, trở thành đôi mắt của chồng. Hình ảnh người vợ còng dùng gậy tre dắt chồng mù không còn xa lạ với người dân ở tỉnh Quảng Tây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567