Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Tánh Trong Ta

15/02/201807:51(Xem: 6370)
Phật Tánh Trong Ta


hoa_mai_2

PHẬT TÁNH TRONG TA

(Nằm trong loạt bài viết về Đời Người và Định Hướng cho Tương Lai)


Hoa tươi đẹp trời xanh mây trắng lượn

Thấy rõ ràng mọi cảnh vật chung quanh

Không phân biệt nhưng thường biết rành rành

Luôn an tịnh nhiều nhiệm mầu diệu dụng

 

Phật tánh là vậy đấy!

Phật tánh,luôn rõ ràng, thường biết, gá vào đất sẽ cho muôn loài nương tựa và tùy theo giống mà sinh sôi, phát triển, lợi ích cho đời, gá vào nước sẽ cho sự mát dịu, lóng sạch, trong mát, ngon ngọt, nhẹ nhàng, nhuận trơn, vui vẻ hòa nhã, trừ đói khát, trừ bệnh hoạn và giúp khoan khái, gá vào gió sẽ cho sự mát dịu, chuyển động, nuôi sống muôn loài, gá vào lửa sẽ cho nhiệt, ánh sáng và kích thích sự tăng trưởng, biến chế thức ăn, uống.

Phật tánh gá vào mắt sẽ giúp ta thấy, gá vào tai sẽ cho ta nghe, gá vào mũi sẽ cho ta ngũi được mùi, gá vào lưỡi sẽ biết được vị, gá vào thân sẽ cho ta biết được sự xúc chạm và gá vào ý sẽ cho ta biết được mọi vật, muôn loài. Nói chung Phật tánh gá vào đâu, cũng cho ta sự lợi ích và thường biết. rõ ràng.

Mỗi chúng ta phải biết rằng:

“Hoa nở hoa tàn, chuyện thế gian

Người tu tự tại, cảnh thanh nhàn

Việc gì cần đến, thì ta đến

Như vậy trần gian, tức Niết bàn

 

Cuộc đời là “Như Thị, Như Thị”, là như vậy, như vậy. Buổi sáng mặt trời mọc lên, ánh nắng lan toả mang năng lượng đến cho muôn loài và hoa lá đua nhau khoe sắc, buổi chiều mặt trời lặn xuống, rồi hoa lá cũng úa tàn theo, đó là chuyện thường tình hằng ngày của thế sự.

Khi hoa nở tỏa mùi thơm, ta tỉnh dậy, mang trà ra uống, tận hưởng một không gian vô cùng lý tưởng, cũng như thưởng thức mùi hương tinh khiết của hoa lá đất trời trong sạch, và nhấm nháp hương vị của trà, mà không phán xét thì còn thú vị và sự an lạc nào bằng ?

Tại sao phải nuối tiếc chuyện vui, buồn quá khứ, hay mơ mộng hảo huyền chuyện tương lai, để rồi luôn nằm vắt tay lên trán, phải nhiều suy nghĩ, lo toan, mà ăn không ngon, ngủ không yên?Đánh mất đi giờ phút nhiệm mầu, tươi đẹp trong hiện tại!

Hoa nở không bảo ta vui, hoa tàn cũng không muốn ta buồn, nhưng đa số chúng ta đã đánh mất mình, quên mình sẵn có bản tâm hằng thanh tịnh, luôn hiện hữu ở bên trong, để chạy theo vật ở bên ngoài, phân biệt, hơn thua, rồi buồn vui, não phiền liên tục, làm cho cuộc đời lắm nỗi truân chuyên, nhiều phen lận đận.

Phật tánh là thể bất sanh, bất diệt, luôn hiện hữu trong mỗi chúng ta, cụ thể nhất là ai ai cũng có thể biết bơi lội, hoặc chạy xe máy đạp được (Bicycle), nhưng nếu không chịu khó tập luyện, thì sẽ không bao giờ bơi hoặc chạy xe được. 

 

Đêm tối tưởng rằng không có sắc tướng gì, nhưng ta và người mù vẫn thấy màu đen, luôn hiện ra trước mắtkia mà.Không có tiếng trống đánh, chuông vang, nhưng ta vẫn có nghe tiếng chim kêu, gió thoảng, đâu đây mà !chứ đâu đợi đến lúc có tiếng trống, hay tiếng chuông ta mới nghe !Tánh nghevẫn luôn hiển hiện, nhưng nếu chúng ta mãi loạn động, lo lệ thuôc và chạy theo bên ngoài, cứ đợi có duyên mới thấy, mới nghe, thì không bao giờ biết, thấy được Phật tánh!

Nếu chúng ta không lo tu tập, lắng đọng tâm tư, và giữ tâm tư cho được thanh tịnh, thì Phật tánh không bao giở hiển lộ.

Khi nào chúng ta biết quay vào bên trong, quán chiếu và giữ tâm được an tịnh, thì lúc đó Phật tánh sẽ hiện rõ ràng, thấu thông tất cả, không việc gì là không biết, diệu dụng vô cùng. Cũng như dòng điện lúc nào cũng sẵn có trong khắp cả, bật contact đèn sẽ sáng, bấm nút máy quạt sẽ chạy, mở tivi sẽ xem được hình, nghe được tiếng, muốn sử dụng điều gì, đem ra cắm điện vào, sẽ cho ta nhiều tiện ích.

Ngọc ẩn trong đá, cũng như vậy, luôn giá trị và đẹp, nhưng nếu ta không biết khai thác mài dũa, biến thành những vật trang sức diễm kiều, thì Ngọc cũng thành vô dụng.

Phật tánh sẵn có trong mỗi người, như hòn Ngọc trong nước, nếu nước an tịnh, lắng đọng hết cấu uế, cặn bả, bùn nhơ thì lúc đó Ngọc hiện rõ ra, cho ta thấy và đem sử dụng tô đẹp cuộc đời, bèn nếu nước cứ chao đảo, động loạn liên tục, bùn nhơ không lắng đọng được, thì làm sao thấy và nhận lấy được Ngọc?

Đa số chúng ta bị duyên trần ràng buộc, nghiệp lực và vật chất kéo lôi, hướng ngoại tìm cầu, nên quên mất bản tâm (Phật tánh) luôn sẵn có trong ta, để từ đó thuận theo dòng vô minh mà sinh tử luân hồi.

Vậy chúng ta phải quay vào bên trong, tin vào Phật tánh đang sẳn có trong Ta, để mà chí thành lo tu tập miên mật, thường “hành thiền”, “trì chú”, “niệm Phật” “tụng kinh”… cho Tâm ta được an tịnh, thì Phật tánh sẽ hiển lộ, cũng giống như ta để yên, lu nước sẽ lắng đọng cặn bả, bùn dơ,lúc đó sẽ cho ta sự trong suốt.

Hay trong củi có lửa, nếu chúng ta cố tâm mài liên tục sẽ lấy được lửa, bèn nếu ta biếng lười, mài không được liên tục, hoặc bỏ dở nửa chừng thì sẽ không bao giờ có được lửa, y hệt như “gãi ngứa ở ngoài giày” có gãi mãi nhưng không bao giờ hết ngứa.

Ta làm với một tâm chí thành, kiên trì, trong sáng thì mới cảm ứng và thành tựu như ý.

Lâu nay Phật tánh và Công đức nằm tiềm ẩn ở bên trong, rất khó thấy, và nhận biết được, nên đa số chúng ta phải hướng ngoại tìm cầu, luôn chạy theo ở bên ngoài, lấy những thành tựu về vất chất, dễ thấy, dễ biết làm thành quả cho sự nghiệp tu tập, nên rồi phiền não, khổ đau vẫn luôn hiện diện.

Phật tánh nằm ở trong Tâm ta, chứ không nằm ở bên ngoài, do vậy “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” luôn soi sáng lại với chính mình qua “thiền tập” là nhiệm vụ chánh, có như vậy, mới không bị phiền não quấy nhiễu, hầu hoàn thiện được tự thân, tiến đến con đường giải thoát, giác ngộ. Lúc đó ta sẽ:

TỰ TẠI

Ngồi một chỗ, nhưng điều chi cũng biết

Ở một nơi, nhưng Pháp giới trong tay

Tu như thế mới tỏ rạng điều hay

Mới không phụ Tứ ân và đúng Pháp

Không lo nghĩ trở trăn cùng tính toán

Sống thong dong tự tại với thiên nhiên

Tâm vô sanh an lạc mãi hiện tiền

Đời là thế hằng tỏ bày hiển hiện

 

Phật tánh là tánh giác ngộ, rõ ràng thường biếtvà Pháp Phật rất nhiệm mầu, có khắp ở mọi nơi, là những phương thuốc thần diệu, chữa lành hết tất cả những phiền não, khổ đau của chúng sanh, nếu chúng ta có được niềm tin vững chắc, thực hành đúng pháp và liên tục với một tâm thương yêu đến mọi loài, vui tươi với tất cả và buông xả hết mọi duyên trần, chấp trước, thì sự an tịnh sẽ chuyển hóa được nội tâm, lúc đó Phật tánh hiển lộ, ta sẽ có được cuộc sống, đầy an lạc và nhiều lợi ích cho đời.

Chùa Pháp Hoa – Nam Úc, những ngày đón mừng năm Mậu Tuất (2018)

Thích Viên Thành







Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 4383)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5250)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5481)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8582)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6430)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6177)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4506)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9483)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5958)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7376)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]