Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Do Đâu Ta Khổ và Hướng Thoát Khổ

18/01/201816:16(Xem: 8344)
Do Đâu Ta Khổ và Hướng Thoát Khổ


hoasen1

DO ĐÂU TA KHỔ ?
và HƯỚNG THOÁT KHỔ

(Nằm trong Loạt bài chào mừng năm mới - 2018- Mậu Tuất,
Viết về Đời Người và Định Hướng cho Tương Lai)




Trong Cư Trần Lạc Đạo phú, Vua Trần Nhận Tông đã viết: “phàm có thân là khổ, là họa”. Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử cũng đã nói: “ ta có cái khốn khổ lớn vì ta có thân, nếu ta không thân thì đâu có khổ !”, thấy biết được như vậy là thấy được lẽ thực, thấu rõ được lý đạo, nhận ra chân lý.

Vì sao có thân là khổ ?

_ Do chấp thân này là thật là trường tồn bất diệt, nên bao nhiêu công sức, tài lực, trí lực, có lắm khi tạo việc ác, giành giựt hơn thua, hãm hại người với mong được sinh tồn và hưởng thụ, để dành cho việc nuông chìu, o bế, dung dưỡng tấm thân này.

_ Do vô minh “chấp ngã” bị ngũ dục che mờ, nên cứ tưởng nhiều danh lợi và nhiều tiện nghi, của cải vật chất là hạnh phúc, để rồi tham sân si lớn dần, quý tấm thân này sẵn sàng đề cao cá nhân, vì quyền lợi cá nhân mà sẵn sàng bỏ qua lợi ích tập thể. Lỗi mình thì to mấy cũng bỏ qua, lỗi người thì nhỏ mấy cũng soi cho kỹ. Nên gây khổ cho nhau, tạo ra không biết bao nhiều oan trái, oán cừu. Nhưng thế gian đâu như ý ta mãi và cũng không để yên cho ta thực hiện mọi mưu đồ!

_ Do “…ham muốn nhiều, lụy khổ càng sâu, nhọc nhằn sinh tử bấy lâu, đều do tham dục dẫn đầu gây nên…” mà Điều 2 trong Kinh Bát Đại Nhân Giác Phật đã dạy.

Tham dục, khiến ta không yên lòng với hiện tại, đã khổ, rồi cực nhọc thực hiện lòng tham, lại khổ thêm, bảo vệ thành quả và bị cướp mất thành quả của lòng tham, lại càng khổ hơn rất nhiều.

Vì ham muốn, con người, “còng lưng gẫy gối”, cố tạo ra nhiều của cải vật chất, xem đó là mục tiêu tối thượng, là sự thành đạt, luôn mưu toan, không có thời gian ngơi nghỉ, với mong cuối cùng sẽ được thảnh thơi, nhưng đâu ngờ, lòng tham vô đáy, “được voi đòi tiên” mù quáng cứ lao về phía trước, bất chấp tội lỗi hay sự nguy hiễm.

Đến khi gần cuối đời, nằm trên giường bệnh sắp từ giả cõi trần, mới thấy mọi thứ rồi cũng vô thường, tất cả đều từ giả ta mà đi, muốn mang theo và chỉ mong một chút bình yên, nhưng nào đâu có được. (Như lời trăn trối của Steve Jobs vậy)

Cho nên Đức Đat Lai Lạt Ma đã nói: 

 “Con người hy sinh sức khoẻ để kiếm tiền. 
Rồi lại bỏ tiền ra để tìm lại sức khoẻ. 
Họ quá sốt ruột với tương lai. 
Nên chẳng còn thời gian để tận hưởng hiện tại. 
Kết quả là họ chẳng sống ở hiện tại hay tương lai. 
Họ sống như thể họ không bao giờ chết. 
Rồi lại chết như chưa từng được sống.”

Trong cuộc đời nầy, có rất nhiều điều oái oăm, thảm thương, tưởng chừng như hay ho, giỏi giang, siêu tuyệt lắm, nhưng rồi xét lại thật ê chề, mê muội!

Mặt nước hồ thu đang yên ắng, phản chiếu các sắc màu, cảnh vật, đẹp một cách tuyệt vời, không chịu đứng nhìn, thưởng thức, phải nhảy xuống hồ để nắm bắt, chiếm hữu cho được những thứ đó, mới chịu, nhưng nào đâu có được. Khi nhảy xuống, đã dấy động mặt hồ rồi, càng đập, càng lội chừng nào, càng làm mặt hồ dậy sóng chừng ấy, còn đâu nữa vẽ đẹp của tự nhiên !  Câu chuyện “doanh nhân với người câu cá” là một điển hình, chúng ta cần suy nghiệm ! Xin tóm tắc như sau: “Bên một bờ hồ có một lão ngư và một doanh nhân ngồi câu cá. Vị doanh nhân nọ để ý ông lão chỉ có một cần câu, cả buối chưa câu được con cá nào. Doanh nhân thấy sốt ruột giùm ông lão liền quay sang hỏi: "Sao ông không sắm nhiều cần câu như tôi này".  Lão ngư quay sang nói: "Để làm gì?". Doanh nhân trả lời: “Thì ông sẽ có thể bắt được nhiều cá” Ông lão lại hỏi: "Vậy lão được cái gì?".Doanh nhân bảo: "Thì ông có thể có nhiều cá ăn và nhiều cá bán". Ông lão nói: "Như vậy lão được cái gì?".Doanh nhân lần này bực mình nói: "Thì ông có thể, có thật nhiều tiền như tôi". Ông lão lại hỏi: "Như vậy lão được cái gì?”.Doanh nhân không giữ nổi bình tĩnh: "Ông có nhiều tiền thì không lo nghĩ và thành thơi ngồi câu cá". Ông lão lúc này mới quay sang nói: "Ông không thấy tôi đang rất thảnh thơi ngồi câu cá đây ư?" Doanh nhân, trầm tư suy nghĩ !!!

Doanh nhân muốn đi tìm chút thảnh thơi, trong cuộc sống, mong được an nhàn mà hưởng thụ, nhưng càng làm chừng nào, công việc và lòng tham đã thúc giục ông phải luôn chạy theo, tạo ra của cải, bảo vệ nó, rồi cũng nhiều lo toan, tính toán, đau khổ vì nó, khi bị cướp hay bị ai đó chiếm đoạt. Có thời gian đâu mà thưởng thức những điều kỳ thú, lợi ích, dẫy đầy trong thiên nhiên !

Xét lại mỗi người chúng ta, đa số cũng đều nằm trong trường hợp như vậy, cứ lo chạy theo vật chất, kim tiền, tất bật, đầu tắt mặt tối, để tạo ra, tom góp những thứ “hư vọng, vô thường” không nắm giữ mãi được. Hoặc tìm một chút cảm giác thoải mái, an toàn trên những tiện nghi hiện đại, sang trọng, để rồi phải còng lưng làm trả nợ, mấy chục năm trời. Một khi kiệt sức, quá khổ, muốn được an nhàn, lúc đó đã bị tàn hơi và sắp vĩnh biệt cõi đời rồi !

Cũng có một số tìm thú vui qua những nơi như: Casino, hý viện hay nhà hàng, quán nhậu... Những nơi nầy lúc nào cũng đông nghẹt người, trong khi đó ở nơi tu hành, nhà thờ, chùa, tịnh xá…thì rất ít người. Thụ hưởng, phung phí phước báu thì nhiều, tu tạo, tích lủy phước báu thì ít, như vậy làm sao mà tránh khỏi khổ được. Đa số NGHÈO KHỔ là do từ đây, đấy quý vị.

Chúng ta phải thường xuyên quán chiếu, để thấy rõ thân này là giả tạm, vay mượn, sẽ không còn mê đắm, lo chìu chuộng, phụng dưỡng thân nữa. Mà biết dùng cái thân này để phụng sự chúng sanh, hoặc tịnh niệm, để có được nội tâm tĩnh lặng, hầu mang an vui lợi ích đến cho mọi loài, lúc đó ta sẽ có niềm vui, có ý nghĩa cuộc đời và lợi ích cho nhân loại, nhất định sẽ hết khổ, hiện tại được an lạc, tương lai sẽ về nơi tịnh cảnh.

Chùa Pháp Hoa-Nam Úc, những ngày đầu năm 2018

Thích Viên Thành

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 4374)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5243)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5474)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8570)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6412)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6162)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4498)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9470)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5950)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7334)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]