Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hồi Đầu Thị Ngạn

24/01/201818:34(Xem: 6872)
Hồi Đầu Thị Ngạn



Phat Thanh Dao_11

HỒI ĐẦU THỊ NGẠN

(loạt bài viết về Đời Người và Định Hướng cho Tương Lai)

Có một nhà thơ sau khi thấm thía được nỗi khổ đau của nhân thế đã viết:

“Bể khổ mênh mông nước ngập trời
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi,
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
Ngẫm lại cùng trong bể khổ thôi.”

 

Chiếc thuyền ở trong biển, dù ngược gió hay xuôi gió cũng đều phải bị sóng gió dập dùi và khổ lụy. Đã sinh ra làm kiếp con người ở trong cõi trần ai này, đều phải chịu tám khổ (sanh, già, bệnh, chết, yêu mà xa nhau, ghét mà gần nhau, cầu mà không được, năm ấm trong người xung đột với nhau). Cho nên con người ở trong bể khổ trầm luân này, dù có tìm được chút vui tạm bợ nào, rồi cũng vui trong khổ mà thôi, chứ chưa phải là cái vui lâu dài, giải thoát.

Cho nên có thơ:

“Trần thế có nhiều cảnh khổ vui
Giác ngộ thoát ra kẻo ngậm ngùi
Vui trong tham dục vui rồi khổ, 

Khổ để tu hành, khổ hóa vui, 
Nếu biết có vui là có khổ, 
Thà rằng đừng khổ cũng đừng vui, 
Mong sao giữ tâm không vui khổ 
Mới thoát ra ngoài lối khổ vui”. 

Bể khổ mênh mang “quay đầu là bến” Đây là câu nói quen thuộc trong kinh sách Phật giáo, mà quý Thầy, Cô khi đi giảng dạy thường hay sử dụng. Một câu nói tuy ngắn nhưng rất nhiều ý nghĩa, gợi cho ta hình ảnh hay một câu chuyện nào đó của một người đã tạo nhiều ác nghiệp, nay hồi đầu, hướng thiện, nên quay tìm về lại con đường tốt, trong sáng.

Ở đây không phải là người nào, mà là cả một xã hội của thời hiện đại.

Đúng vậy ! nhìn những thảm cảnh của các trận, động đất, sóng thần, bão, lụt, lốc xoáy, vòi rồng…diễn ra trong khắp nơi, chúng ta đã thấy sự cuồng nộ, nỗi giận, tàn phá của thiên nhiên, thật là kinh hoàng khũng khiếp. đã, đang và rồi cũng sẽ có những tan thương chết chóc tiếp tục qua các cuộc khủng bố của những kẻ cuồng tín và chiến tranh hóa học !

Tất cả những hậu quả ấy, là do con người với lòng tham sân si đang chất ngất. Nhóm “tài phiệt” với thế lực ngầm rất mạnh, đã chi phối các cường quốc, dùng kiến thức và sự giàu có của mình, tạo ra các cuộc chiến tranh, hết “ý thức hệ” bây giờ có thể muốn tạo nên “chiến tranh tôn giáo” hay “chiến tranh hóa học” !

Rồi khoa học tiến bộ, mọi tiện nghi vật chất mỗi ngày mỗi đỗi mới, tài nguyên thiên nhiên khai thác cạn kiệt... Nếu con người không biết dừng lại mà cứ muốn thể hiện “bản ngã” để Tham – Sân – Si luôn khởi lên, thì đừng hy vọng có được thái bình, thịnh vượng đích thật.

Qua ba nghiệp thân, miệng và ý con người mặc sức gieo tạo, với thời buổi tiến bộ về kỳ thuật số “bùng nổ truyền thông” này, chỉ cần một phút là trên toàn cầu đều biết và vũ khì hiện đại, chỉ cần nhấn nút là hỏa tiễn liên lục địa, sẽ mang đầu đạn hóa học, hủy diệt cả một vùng rộng lớn, có thể cả một dân tộc, một đất nước. Nên kẻ xấu đã lợi dụng, gây hận thù, chia rẽ, rồi chiến tranh, làm giàu trên sự chết chóc, tan thương của nhân loại.   

Một đời người, sống tối đa một trăm (100) năm, chết rồi cũng bỏ lại tất cả, chỉ mang theo được chăng là “nghiệp” mình đã gieo tạo như: Thành Cát Tư Hản, Adolf Hitler, Saddam Hussein, Gaddafi…lừng lẫy một thời, rồi cũng phải chết thảm thương, bằng cách bị treo cổ và bị bắn chết trong ống cống ! Osama bin Laden hay IS gây khiếp đãm, kinh hoáng qua những trận khủng bố, rồi cũng phải có ngày bị tiêu diệt.

Giàu có như những tỷ phú: Al-Hariri người Lebanon, Tỷ phú Ashraf Marwan là con rể của cựu Tổng thống Ai Cập Gamel Abdel Nasser. Arkady "Badri" Patarkatsishvili là một đại gia đầy quyền lực lẫn tiền bạc của Gruzia…đều có những cái chết thê thảm, hay Job Steve, rồi cũng phải trăn trối những lời đáng suy nghiệm! .
Tại sao chúng ta không học hỏi và làm theo A Dục Vương, hay A Lịch Sơn Đại Đế, biết quay đầu, sám hối tội lỗi của mình, bằng cách theo Phật và truyền bá Phật Pháp ra khắp nơi làm lợi ích cho đời, hay như vợ chồng Bill Gate hy sinh cả thân mạng và tiền của, để nghiên cứu những thứ chống lại và phòng ngừa bệnh tật thời đại, mang trí tuệ đến những nơi nghèo khốn khó.

Thấy những trận động đất, sóng thần…kinh hoàng mà mỗi chúng ta hãy mau thức tỉnh, mà lo quay đầu. “Quay đầu là bờ” tức là sẽ đến được nơi bình yên sung sướng, thanh thoát…

Trong kinh Phật có chuyện Ông Vô Não. Khi Đức Phật còn tại thế, với tâm từ, Ngài đã độ cho tướng cướp Vô Não (Angulimala) do cuồng tín, tin theo lời Thầy, muốn được truyền phép mầu, phải giết một trăm (100) người, rồi chặt lấy ngón tay. Vô Não đã giết được chín mươi chín (99) người, đeo một tràng ngón tay quanh cổ, chỉ còn thiếu một người nữa, thì gặp mẹ chàng đi tới. Chàng xông xáo chạy đến định giết mẹ thì Đức Phật hiện đến, chàng liền đổi ý chạy theo Phật để hạ sát. Chàng chạy như tên bay mà không kịp. Tức quá chàng kêu to: “ Kìa ông sa môn ! sao ông không dừng chân lại ?” Đức Phật đáp: “Này Vô Não, Như Lai dừng bước đã lâu rồi chỉ có ngươi chưa chịu dừng bước đó thôi”. Vô Não hỏi lại: “ Ông nói ông dừng bước sao tôi chạy theo mãi không kịp? ông là người nói dối ”. Phật đáp: “ Như Lai đã dừng bước trên con đường tội lỗi, Như Lai đã trút bỏ gươm giáo từ lâu rồi”. Vừa nghe được bấy nhiêu lời, Vô Não chợt tỉnh mộng điên cuồng, hối ngộ, liệng dao quỳ trước Phật, xin Phật ra tay tế độ. Cuối cùng Vô Não được xuất gia theo Phật, nghiêm mật tu hành, thành bậc A La Hán và viên tịch một cách yên bình, chứng đắc Vô dư Niết bàn. Nên có câu “Buông đao thành Phật” hay “Quay đầu là bờ” chính là vậy.

Cuộc đời là một chuyện thị phi nhiều tập, là vòng phân biệt, đối đãi, đưa ta vào chốn khổ, nếu chạy theo hoặc bị thị phi chi phối, chỉ mất rất nhiều thời gian vô ích, vừa đánh mất chính mình vừa chuốc tội vào thân.

Đã được làm người là có phước lắm rồi, mọi người đều có tính tốt, hãy có cái nhìn sáng suốt và niềm tin chân chính, hầu tương kính nhau, tha thứ, để tất cả cùng hướng thượng, chung sống hòa bình, thì trần gian nầy là Thiên đường rồi!                                                                                                                               

“Gieo gió ắt gặt bão”, “Ở hiền thì gặp lành”. Vậy những ai muốn có cuộc sống an khang, hạnh phúc hãy HỒI ĐẦU “không tạo các việc ác, siêng làm các điều lành, giữ tâm ý trong sạch, làm lợi lạc cho mọi người” thì sẽ được ĐẾN BẾN BỜ BÌNH YÊN mới chính là người đáng được tưởng nhớ, tôn vinh.

Ta có tốt thì mới hy vọng chiến thắng được cái xấu. “Ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng, ai tội nấy mang” chứ không ai, có thể thay thế cho ai được cả, vậy nên mỗi chúng ta hãy mau thức tỉnh, mà noi gương những bậc anh minh, biết “hồi đầu hướng thiện”, như A Dục Vương hay Alịchsơn Đại đế, cho bản thân được cao đẹp, xã hội được an lành, hậu thế tôn vinh, chứ đừng chạy theo “bản ngã” với nhiều vọng tưởng, vô minh mà khổ lụy cuộc đời.

 “Biết dừng lại và quay đầu là đến bến”. Đừng để phải đau xót, ngậm ngùi hát mãi câu: “ Thiên đàng rộng cửa không ai đến, Địa ngục không môn lắm kẻ tìm”.    

 

Pháp Hoa Nam Úc, kỷ niệm ngày Phật Thành Đạo 8/12 Đinh Dậu (1/18)

Thích Viên Thành                                                                         

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 4376)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5244)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5474)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8571)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6413)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6167)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4499)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9471)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5950)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7337)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]