Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cầu nguyện cho người quá cố thế nào cho đúng?

03/03/201714:51(Xem: 6889)
Cầu nguyện cho người quá cố thế nào cho đúng?
Cầu nguyện cho người quá cố thế nào cho đúng?
HT Thích Thanh Từ

 Phật tử hỏi: Kính bạch Hòa Thượng con có những thắc mắc cuối mong Hòa Thượng từ bi dẫn giải cho chúng con được rõ, rất đội ơn thầy. 

1. Trong kinh Địa Tạng và kinh Vu Lan, Tự Tứ dạy cúng dường chư Tăng 10 phương thì có thể cứu được cha mẹ ông bà 7 đời được sanh về Nhân Thiên, còn hiện tại cha mẹ được phước lực tiêu khiên và ghi có chúng sanh sắp mạng chung nếu thân quyến tu nhân duyên thắng thọ thì các tội ác người mạng chung thảy đều tiêu sạch.

2. Trong kinh Địa Tạng có dạy rằng sau 49 ngày vì người chết mà tu đạo nhiều phước lành thời làm cho người chết khỏi hẳn chốn ác đạo, sanh trong loài người hoặc Trời rất vui sướng và người thân quyến hiện tại cũng được nhiều lợi ích, hơn nữa trong nhà có người bệnh thân quyến vì người bệnh sắp chết đó mà niệm lớn tiếng danh hiệu của 1 Đức Phật thấu vào lỗ tai người sắp mạng chung hoặc là ở nơi bổn thức nghe biết thì có thể trừ 5 tội lớn vô gián, các nghiệp báo khác đều tiêu cả và còn những việc linh nghiệm nhiệm màu khác …v..v..

Kính bạch Hòa Thượng vậy áp dụng câu “ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc” thì có phản ảnh lại trong kinh không? Kính nhờ Hòa Thượng giải đáp giùm để chúng con thoát ra được cái vòng lẩn quẩn mê muội đó.

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.


Sư đáp:

Thì đây là 1 cái nhìn do Phật tử đọc kinh rồi thấy như kinh Vu Lan kinh Địa Tạng trong kinh dạy mình giúp cho người chết hoặc bằng cách tụng kinh, làm phước, mình tu để cầu nguyện thì như vậy sẽ bớt được những cái bịnh khổ. Nhưng về chỗ khác đứng về mặt nhân quả Phật nói “ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc” thì như vậy là sao? Làm sao 2 cái dung hợp với nhau mà không có bị chống trái nhau. Đây là thắc mắc của nhiều Phật tử, thì tôi xin giải thích cho quý Phật tử hiểu rõ cái điều này.

Thật ra kinh Phật lúc nào cũng chỉ dạy cho chúng sinh được nhiều lợi ích, chớ không có kinh nào nói sai đạo lý. Nhưng mà chúng ta học đạo thì phải hiểu cho thật rõ kinh Phật thì có lý có sự, chỗ thì nói rõ lý chỗ thì phân biệt sự. Nếu đứng về mặt lý thì khác, đứng về mặt sự thì nó lại khác, nhưng chỗ quan trọng ở đây Phật tử chúng ta nên hiểu cho rõ ràng nhân quả là cái cội nguồn của Phật pháp, cái đó là cái gốc. 
 Nếu bỏ nhân quả là không có đúng với tinh thần đạo Phật, nói đến nhân quả thì ai làm nấy được chớ mình làm mà người khác được thì không thể. Như vậy trái với ý kinh nói rằng mình cầu nguyện cho thân nhân mình được siêu thoát điều đó chắc không đúng.

Nhưng sự thật nó không phải là không đúng. Bởi vì cầu nguyện có kết quả hay không kết quả tùy theo chỗ , việc làm của người đương sự chớ không phải nói tất cả có kết quả hay không kết quả. Như có người khi cha mẹ mất bản thân người đó tha thiết thành tâm cầu nguyện 1 cách hết sức là khẩn thiết cảm thông được tâm của người cha người mẹ khi còn lãng vãng chưa có vãng sanh, chưa sanh nơi khác thì liền có kết quả, mà kết quả đó không trái với đạo lý nhân quả.

Bởi vì sao? Bởi vì tâm niệm của người mất nếu người đó là người hiền thì khi họ gần tắt thở cái niệm tốt còn, cho nên thấy những cảnh vui. Nếu người con hay thân nhân thành tâm tha thiết hướng về người mất với tâm thanh tịnh thì có sự cảm thông làm tâm người hiền kia được sáng hơn nữa, làm tăng trưởng sanh lên các cõi lành.

Còn nếu trong khi người mất tâm không lương thiện nên bị cái mờ ám, tối tăm cho thấy những cảnh dữ. Trong khi vừa thấy những cảnh dữ lang thang, bỗng dưng được những cái tưởng niệm lành của trong thân nhân hướng về họ có khi họ tĩnh được họ buông được những niệm ác, xấu của họ liền qua được cảnh khổ. Thì như vậy cái niệm đó là 
có lợi ích còn nếu không được vậy thì không lợi ích.

Quý vị nhớ tâm niệm hay tâm tưởng của con người có sức mạnh phi thường chớ không phải là thường mình hướng vế cái gì thì có thể có cái đó mà người ta gọi là nhân điện, có 1 sức mạnh cảm thông được giữa người mình và 1 người khác. Do đó cho nên khi mình có tâm cầu nguyện thanh tịnh thì có ảnh hưởng tốt, đó là tôi nói trường hợp đặc biệt đó. Còn nếu tâm cầu nguyện một cách sơ sài không tha thiết thì kết quả chắc cũng sơ sài chớ nó không được bao nhiêu đó là chuyện thường.

Bởi vì tâm người kia khi họ hướng về điều ác thì họ khổ, khi sáng lên bỏ điều ác thì họ lại vui thì như vậy là cứu khổ là được vui. Mà cứu khổ được vui đó là từ cái gì? Từ chuyển được cái tâm, chuyển tâm mê thành tâm tỉnh giác thì cái khổ hết cái vui đến, khổ hay vui tùy tâm của mình mê hay tỉnh. Thì đó có trái nhân quả hay không? 
 Đâu có trái phải không. Trước họ mê đương làm nghĩ những điều ác thì khổ bây giờ mình có sức tưởng chánh niệm hướng về họ khiến họ tỉnh thì tự nhiên cái khổ họ hết, hết không phải do mình là hết mà chuyển được tâm họ từ mê sang tỉnh, tỉnh thì hết khổ.

Bây giờ tôi nói cách gần gũi cho quý vị thấy, như quý vị đang ở trên thế gian này đang sống như nhau mà có những vị hồi trước chưa hiểu đạo, chưa học đạo cho nên cái gì vui cái gì đến với mình thì mình ôm ấp buồn khổ 5 tháng -10 tháng quên ăn quên ngủ. Rồi bây giờ quý 
vị đến chùa nghe quý thầy giảng hiểu đạo thấy cái cố chấp vui buồn đó không có thiệt, không quan trọng thì quý vị bỏ sự vui buồn đó rồi cũng ăn ngủ bình thường khỏe mạnh, không con buồn khổ như trước. 
 Như vậy cái gì làm cho quý vị khổ? Cái gì làm quý vị hết khổ? Do tâm quý vị, tâm đen tối mê chấp thì khổ nhiều, tâm tỉnh sáng thì khổ ít, trong 1 hoàn cảnh mà trước khổ bây giờ bớt khổ. Thì như vậy ai làm? Chỉ cần có cái hiểu cái nhận đúng rồi chuyển được tâm mình thì bớt khổ.  Cũng nghèo như xưa , mà hồi xưa nghèo khổ mà bây giờ nghèo không khổ. Vì sao? Có phải chuyển được cái tâm mà mọi cái khổ theo đó nó chuyển. Hiểu vậy rồi mới biết cái sự cầu nguyện có linh thiêng hay không là do lòng chí thành của mình chuyển được tâm thân nhân mình thì họ bớt khổ còn không chuyển được thì khổ y nguyên.
Chớ không phải mình có thần lực màu nhiệm gì tới làm cho họ hết khổ cho nên trong kinh Địa Tạng có dặn người người mất hôn mê mình làm sao niệm Phật cho họ nghe được cảm được nếu họ nghe cảm được họ nhớ Phật thì họ hết mê bớt khổ. Còn nếu họ không nghe được không cảm được thì họ khổ, chớ không phải do mình niệm Phật họ bay hết cái khổ hiểu vậy thì không có gì trái với nhân quả hết.

Như vậy tất c
 lời Phật dạy có giá trị thực nhưng quan trọng là ở cái người hành người giúp phải làm sao cho được tận tình chân chánh thì mới có kết quả tốt còn nếu không tận tình chân chánh thì kết quả không tốt. Đó là cái nghĩa thực như vậy.
 


HT Thích Thanh Từ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 6745)
Nhiều người hỏi tôi, Phật tử nghĩ gì về hôn nhân đồng tính? Vâng, vấn đề này tùy thuộc vào đối tượng mà bạn nói đến. Cách đây vài năm, trong cuộc phỏng vấn với hãng CBC, đức Dalai Lama đã bác bỏ quan hệ đồng tính, khiến ngạc nhiều người cải đạo sang đạo Phật ngạc nhiên. Đôi khi, họ quá dễ dãi cho rằng đạo đức Phật giáo là phù hợp với quan điểm tiến bộ tiêu biểu của họ. Khi cuộc phỏng vấn của người Gia-nã-đại được lên mạng internet, vài người bị choáng và bị rối, nhưng quan điểm của đức Dalai Lama đưa ra không làm ngạc nhiên đối với bất cứ ai lưu tâm theo dõi vấn đề này. Rốt cuộc thì lập trường của ngài vẫn trước sau như một. Tại một hội nghị cách đây 12 năm, khi các lãnh đạo đồng tính gặp đức Dalai Lama ở San Francisco để thảo luận vấn đề cấm Phật tử Tây Tạng phản đối việc đồng tính luyến ái, ngài đã nhắc đi nhắc lại quan điểm truyền thống rằng đồng tính luyến ái là “tà hạnh”
18/09/2010(Xem: 11855)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
17/09/2010(Xem: 8627)
Gốc tiếng Phạn của chữ cà-salà kasaya.Nhưng thật sự chữ kasayatrong tiếngPhạn không có nghĩa là áomà có nghĩa là bạc màu, cáu cặnhay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm(màu nhạt), trọchay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc,bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sacủa người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèonàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gìvề chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc nhữngđiều vừa nêu trên đây.
10/09/2010(Xem: 51016)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 5379)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựng là vô cùng mạnh mẽ, tại vì chỉ một giây phút tức giận là có thể phá hủy hết công đức của cả một đời người.
07/09/2010(Xem: 6630)
Chúng ta chỉ có một địa cầu. Người Phật tử và những người có lương tri trên hành tinh này đều giống nhau, đều khát vọng an bình toàn cầu, như cọng cỏ khát ánh mặt trời, như cá khát dòng sông êm dịu. Thế nhưng, khi chúng ta đứng trên một bình diện nào đó của địa cầu, huớng về khát vọng, chúng ta sẽ thất vọng phát hiện: quả địa cầu này tràn đầy bạo động và bất an, chiến tranh cục bộ, tranh giành quân bị, xung đột địa giới, dân tộc mâu thuẫn, giáo phái phân tranh, chủng tộc kỳ thị, tà giáo ngang ngược, khủng bố đe dọa, buôn chích ma túy, tàn phá môi trường, tài nguyên cạn kiệt, giàu nghèo chênh lệch, tội phạm gia tăng, công chức hủ hóa, HIV hoành hành và vô số bệnh thái sa đọa khác của xã hội loài người. Tất cả đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã và đang phủ lên một màu sắc u ám, đe dọa đến sự an bình trên quả địa cầu này.
04/09/2010(Xem: 9881)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 5845)
Đọc xong những câu chuyện của các phụ nữ ở Hoa Kỳ và kinh nghiệm của các vị đối với đạo Phật, chúng tôi đã rất hoan hỷ và xúc động trước những nhận thức sâu xa của họ về cuộc sống, con người và môi trường chung quanh... Những lời dạy của đức Phật vừa nhiệm màu vừa thực tiễn đến làm sao! Những lời giảng dạy ấy đã chữa lành, loại bỏ những khổ đau và đem lại sự bình an, hạnh phúc đến hàng vạn con người trong nhiều thế kỷ qua. Sau đây là các câu chuyện của những phụ nữ người Hoa Kỳ từ các nguồn gốc khắp nơi trên thế giới. Những câu chuyện về hạnh phúc và sự sống trong tỉnh thức của họ qua sự tu tập và trở về với Đạo Phật. Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu và chia xẻ cùng bạn đọc.
02/09/2010(Xem: 5653)
Phiêu linh bao kiếp luân hồi - Phút giây hội ngộ, đời đời khổ đau - Mịt mùng tăm tối lạc nhau- Mang mang sáu cõi lao đao kiếm tìm
30/08/2010(Xem: 7434)
Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567