Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ tâm

21/12/201418:29(Xem: 8176)
Từ tâm

bill-gates-2 

 

     Câu chuyện thứ nhất nói về một người được coi như là một vị Bồ Tát của nhân loại. Đó là bà Melinda Gates. Bà sinh năm 1964. Chồng bà là ông Bill Gates sinh năm 1955. Ông là một doanh nhân người Mỹ, nhà từ thiện, tác giả và chủ tịch tập đoàn Microsoft, hãng phần mềm khổng lồ. Ông luôn có mặt trong danh sách những người giàu nhất thế giới. Khối tài sản của ông có khi lên tới 77, 8 tỉ USD.

     Ngay sau khi cưới nhau, hai vợ chồng bắt đầu làm từ thiện nhưng làm một cách dè dặt, trong đó có lần tặng máy vi tính xách tay cho các ngôi làng ở khu vực xa xôi tận Châu Phi. Nhưng rồi hai người nhận ra người dân nơi đây cần thức ăn và thuốc men để chống lại cái chết hơn là máy móc xa xỉ.

     Hai vợ chồng sáng lập ra Quỹ Bill & Melinda Gates, một tổ chức từ thiện đã đóng góp tới $24 tỷ USD cho cứu tế. Quỹ bắt đầu hoạt động với quy mô nhỏ vào năm 1997 rồi chính thức khai trương vào năm 2000.   

     Bà từng nói: “Chúng ta có xem rẻ mạng sống của người Phi châu hơn mạng sống của chúng ta không? Bill và tôi cho rằng không có sinh linh nào mang giá trị hơn hay kém so với sinh linh khác. Chính sự công bằng này là lý do để quỹ từ thiện của chúng tôi hoạt động.”

     Vợ chồng Gates đã cam kết sẽ trao tặng hết 95% tài sản khổng lồ của mình. Hiện ông bà đang có 3 người con nên nhiều người sẽ ngạc nhiên vì thấy ông bà không dành phần lớn tài sản của mình để lại cho con cái. Nhưng Melinda nói: “Các con của chúng tôi đã có tài khoản riêng của chúng. Không phải lúc nào chúng muốn mua gì cũng được mà phải đợi đến những dịp như sinh nhật mới được tặng hay đợi cho đến khi chúng tự để dành đủ tiền”. Hai vợ chồng thống nhất trong việc để dành thừa kế cho các con là sẽ không quá 5% tài sản của họ. Khối tài sản khổng lồ còn lại sẽ trở thành khoản đầu tư từ thiện với mong muốn sẽ đem lại lợi ích cho nhiều người hơn nữa. Tỷ phú Bill Gates từng nói “Tôi không nghĩ rằng việc đưa tiền cho các con là điều tốt cho chúng cũng như toàn xã hội.”  

     Quỹ Bill & Melinda Gates đã chi cho nhiều dự án cứu tế, từ thiện, y tế và giáo dục. Trải qua 7 năm hoạt động, dưới sự điều hành của Melinda, quỹ đã góp phần cứu sống ít nhất 700.000 người tại các quốc gia nghèo thông qua các khoản đầu tư vào những chương trình vaccine. Hiện nay đây là quỹ từ thiện lớn nhất thế giới, với tài sản lên tới 29,1 tỉ USD và luôn đi đầu trong chiến dịch nâng cao sức khỏe cộng đồng trên quy mô quốc tế.

     Theo tạp chí Forbes thì bà Melinda Gates là một trong 10 người phụ nữ có quyền lực nhất thế giới.

*

Warren Buffett

     Câu chuyện thứ hai là về tỷ phú Warren Buffett. Ông là một nhà đầu tư và cũng là một nhà từ thiện nổi tiếng trên thế giới. Ông đã từng tuyên bố sẽ dành 99% số tài sản của mình để làm từ thiện, ngay cả khi ông còn sống hay sau khi ông qua đời. Theo tạp chí Fortune, tỷ phú Warren Buffett sẽ thực hiện lời hứa của mình khi quyết định quyên góp 83% số tài sản của mình vào quỹ từ thiện do vợ chồng tỷ phú Bill Gates thành lập (như đã nói ở trên).

     Tỷ phú Warren Buffett cho biết ông không hề lo lắng về con cái của mình. Trong một lá thư gửi tới tổ chức từ thiện của Bill Gates, ông viết “Tôi chỉ đưa cho con mình đủ tiền để chúng biết rằng chúng có thể làm bất cứ điều gì mình muốn, nhưng cũng không quá nhiều khiến chúng tưởng rằng chúng chẳng cần làm gì cả.”

*

     Câu chuyện thứ ba đề cập tới Châu Nhuận Phát, một diễn viên Hồng Kông nổi tiếng trong suốt 20 năm qua. Ông là một trong những ngôi sao lớn nhất của điện ảnh Hồng Kông thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Từ giữa thập niên 1990, ông bắt đầu chuyển hướng sang Hollywood. Ông tỏ ra uy nghiêm và rất phong độ khi thể hiện vai Ngọc Hoàng Đại Đế trong siêu phẩm Đại Náo Thiên Cung.

     Ông lập gia đình. Vợ chồng lấy nhau đã 28 năm nhưng không có con cho nên ông muốn tặng hết 99% số tiền kiếm được cho những người nghèo khó cần giúp đỡ.

     Châu Nhuận Phát sinh năm 1955 trong một gia đình nghèo. Khi còn nhỏ ông thường phải dậy sớm để giúp mẹ bán đồ điểm tâm trên phố rồi buổi chiều lại phải ra đồng làm việc. Năm lên 10 tuổi thì cả gia đình chuyển đến Cửu Long. Năm 17 tuổi ông phải bỏ học để giúp đỡ gia đình bằng nhiều nghề khác nhau như trực khách sạn, đưa thư, bán máy ảnh và tài xế taxi.

     Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo lại có người cha ham mê cờ bạc nên ông đã phải trải qua mọi vất vả, cực khổ. Đó là lý do khiến ông dễ cảm thông với những người khốn khổ trong xã hội. Ông có ý định sẽ dùng gần trọn gia tài của mình, ước tính hơn 1 tỷ đô la HK (khoảng 130 triệu USD) để giúp đỡ cho người nghèo. Ông chỉ dành lại 1% cho cuộc sống của hai vợ chồng mà thôi.

     Dù là một ngôi sao quốc tế, từng ăn những món cao lương mỹ vị, ở những khách sạn sang trọng bậc nhất nhưng Châu Nhuận Phát không dùng xe hơi đắt tiền, không dùng điện thoại smartphone và những thứ đắt tiền khác. Hằng ngày khi cần di chuyển, vợ chồng ông đi tàu điện, đón xe bus. Ông nói một cách khôi hài là: “Trong tàu điện hay xe bus mọi người đều cắm đầu vì bận sử dụng smartphone nên không có ai thèm để mắt đến mình khi mình bước vào nên chẳng lo bị làm phiền chi cả!”

     Để có được khối tài sản lớn như hiện tại, Châu Nhuận Phát cho biết ông đã phải tiết kiệm từng đồng một, tích trữ hết ngày này qua ngày khác chứ không phải dễ dàng gì.  

     Được hỏi về tin ông sẽ tặng đến 99% gia tài của mình cho người nghèo khổ, ông nói: “Đúng vậy, tôi cảm thấy thật sự đó không phải tiền của tôi. Tôi chỉ giữ giùm tạm thời thôi. Tôi sẽ dứt khoát hiến tặng lại tất cả. Tôi sẽ trao tặng lại cho các công tác từ thiện vì chính nơi đó mới cần đến hơn!” (I will definitely donate it all! I will give it to charities that need it the most.)

*

     Và câu chuyện thứ tư là tin tức từ Seatle, WA cho biết có một ông cụ lớn tuổi tên là Jack MacDonald. Cụ sống rất đạm bạc và qua đời vào tháng 9 năm 2013 ở tuổi 98. Cụ đã bí mật để lại cái gia tài $188 triệu USD cho các công tác từ thiện (Frugal Seattle man leaves $188M secret fortune).

     Cụ thường cố tình mặc áo quần vá víu, khuỷu tay áo bị rách. Cụ đi xe bus thay vì đi taxi. Cụ để lại cho cho bệnh viện Seattle Children's Research Institute một món tiền lớn nhất từ trước đến nay, dành cho việc nghiên cứu sức khỏe trẻ em. Tiền được trích từ quỹ từ thiện $188 triệu của cụ.

     Cụ đã hoạt động từ thiện bí mật trong nhiều thập niên. Chỉ có một vài thân nhân và thân hữu biết được là cụ ông có nếp sống rất đơn giản và đạm bạc. Trong vòng 40 năm qua, cụ đã sử dụng tài đầu tư chứng khoán, chọn mua cổ phiếu, để biến gia tài cha mẹ để lại cho cụ được hưởng, là  Công Ty MacDonald Meats của bố cụ, thành một tài sản khổng lồ, dành cho mục đích giúp đời.

     Được biết cụ cũng để lại một phần quỹ từ thiện của mình cho University of Washington School of Law (nơi cụ đã tốt nghiệp môn Luật vào năm 1940) và Salvation Army.

     Cụ từng phục vụ tại Nam Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ II trước khi trở thành một luật sư của Veterans Administration, hỗ trợ hàng trăm hội thiện nguyện khác nhau với tiền lương và tiền lời do nguồn đầu tư của mình, trong đó có $ 536,000 cụ đóng góp để xây một ngôi làng tại Canada mà ông nội của cụ đã di dân đến từ Scotland.

     Thủ quỹ của Seattle Children's Research Institute cho biết cụ là người rất khiêm nhường, sống ẩn dật, hay thăm viếng bệnh viện và tỏ ra thông cảm với bệnh nhân và người nhà của họ. Cụ rất yêu thích những câu chuyện bình phục của người bệnh, nói rằng những câu chuyện này chứa nhiều niềm hy vọng, khiến cụ xúc động, và muốn hiến gia tài của mình cho việc nghiên cứu y khoa.

 

                                                                           *
     Ngoài các chuyện kể trên người ta lại thường nói tới một số nhân vật khác. Những người này tuy giàu có nhưng lại không muốn để hết gia tài lại cho con cháu mình:

     Pierre Omidyar là ông chủ eBay. Trở thành tỷ phú khi mới 31 tuổi. Theo tạp chí Forbes, tỷ phú người Pháp này đã dành toàn bộ công sức cũng như tiền bạc của mình để giúp đỡ những người kém may mắn, thay vì dành toàn bộ tài sản cho 3 con. Vào năm 2010, Pierre Omidyar đã tham gia vào tổ chức từ thiện do tỷ phú Gates và Buffett thành lập.

     Michael Bloomberg là thị trưởng Thành phố New York, được trả lương tượng trưng là 1 đô la cho chức vụ này, bởi ông có số tài sản to lớn là 19,5 tỷ USD. Ông cũng dành phần lớn tài sản để quyên góp cho trường Đại Học Johns Hopkins, cho tổ chức Carnegie và hàng nghìn các tổ chức phi lợi nhuận khác.

     Gina Rinehart là người phụ nữ giàu nhất Australia. Bà muốn loại bỏ tên của 4 người con ra khỏi danh sách thừa kế của gia đình. 

     Bernard Marcus là Chủ tịch bán lẻ hàng nội thất Home Depot. Ông sở hữu số tài sản 1,5 tỷ USD. Tuy nhiên, ông cũng không muốn con cái thừa kế số tài sản của mình. Ông từng cho biết sẽ quyên góp phần lớn số tài sản của mình cho giáo dục và những trẻ em khuyết tật.

    Jackie Chan, ngôi sao truyền hình nổi tiếng, vào năm 2011 đã quyết định dành một nửa số tiền của mình làm từ thiện sau khi ông qua đời. Ông cũng cho biết ông không hề có ý định để lại số tài sản cho đứa con trai. Ông nói “Nếu có khả năng, con trai tôi sẽ tự kiếm tiền bằng công sức của nó. Còn nếu không, nó sẽ chỉ lãng phí tiền của của tôi mà thôi.”

*


    
Các câu chuyện kể trên liên quan tới những con người thật, sự việc thật, đã đưa ra chân lý cho một câu nói cổ xưa rằng: “Phúc tại tích thiện, họa tại tích ác”. Thiện lương và đức hạnh của một người giống như kho trữ vàng có thể dùng mãi mà không cạn. Khi mà ta đang giúp người khác, thực sự là ta đang giúp chính mình vậy.

     Đức Phật từng giảng cho một thanh niên thắc mắc về sự bất đồng giữa các chúng sinh: “Tất cả chúng sinh đều mang theo cái nghiệp của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa. Chính vì cái nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa chúng sinh”…

     “Nếu người kia không bao giờ biết bố thí vật gì. Do tính keo kiết, bám víu vào tài sản sự nghiệp của mình, nếu tái sinh trong cảnh người, sẽ là người nghèo nàn thiếu thốn. 

     Nếu người kia giàu lòng quảng đại, tính ưa bố thí. Do lòng quảng đại rộng rãi ấy, nếu tái sinh trong cảnh người, sẽ là người giàu có dư dả.”

     Trong một đoạn khác Phật dạy: “Ta là kẻ thừa hưởng kết quả của hành vi tạo tác của ta như một di sản từ quá khứ truyền lại.” Kinh Pháp Cú:


(Pháp Cú 53)

Như từ một đống hoa tươi

Lựa ra ghép lại cho đời tràng hoa

Nhiều tràng phô sắc mặn mà,

Người đời cũng vậy khác xa đâu nào

Thân tâm an lạc, thanh cao

Làm nên việc thiện kể sao cho vừa.


     Truyện tích kể rằng người kia giàu có nhưng keo kiết. Ông có năm hũ vàng chôn giấu trong nhà nhưng không cho con biết. Đến lúc chết, ông ta tái sinh làm một người ăn xin có hình tướng xấu xa. Ngày nọ, tình cờ ông đi đến cái nhà của ông trong kiếp sống trước, nhưng khi bước vào thì bị con và người nhà cột trói lại và vứt trên một đống rác. Đức Phật đi ngang qua thấy vậy mới lưu ý người chủ nhà rằng ông kia chính là cha của anh trong kiếp trước. Anh không tin. Đến khi được biết chuyện năm hũ vàng, anh về nhà đào lên thấy đúng. Đức Phật chỉ rõ cho thấy rằng kẻ cuồng si trong cuộc đời cứ lo nghĩ về cái “ta” giả tạo mãi, không biết rằng chính mình cũng không phải là của mình nữa huống chi là con cái, là tài sản của mình:


(Pháp Cú 62)

“Đây là con cái của tôi

Đây là của cải mấy đời chắt chiu!”

Người ngu chỉ nghĩ bấy nhiêu

Nào hay biết được một điều thâm sâu:

Chính thân ta cũng có đâu

Mà đòi con nọ, mà cầu của kia.

 

     Người Phật tử tu hạnh Bồ Tát ngoài mười điều thiện, phải tu tập pháp “Lục Độ Ba La Mật”. Lục là sáu. Độ là vượt qua. Ba la mật nguyên âm tiếng Phạn là Paramita, người Trung hoa dịch nghĩa là “bỉ ngạn đáo”, nói theo tiếng Việt là “đến bờ bên kia”.

     Đây là sáu món tu tập có công năng như một chiếc thuyền, đưa mình từ bờ bên này, bờ vô minh của thế gian, vượt sang bờ bên kia, bờ giác ngộ của chư Phật. Kẻ tu hành muốn đến bờ giải thoát hoàn toàn, cần phải tu cả phước lẫn tuệ. Tu phước gồm có: “bố thí, trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục”. Tu tuệ là “thiền định và trí tuệ”

     Người Phật tử, khi noi theo dấu chân Phật, cũng phải thể hiện được lòng từ bi và làm cho nó tăng trưởng. Mầu nhiệm nhất là thực hành pháp môn “bố thí ba la mật”.

     “Bố” nghĩa là rộng rãi, cùng khắp. “Thí” là cho, là trao tặng. “Bố thí Ba la mật” gồm hai loại là “tài thí” và “pháp thí” sau đây:    

     Tài thí là đem tiền bạc, của cải, vật thực của mình ra cho người thiếu thốn. Đôi khi đem những vật quý báu nhất của mình như thân mạng, đời sống của mình để cứu vớt kẻ khác ra khỏi nguy nan.

     Pháp thí là đem chân lý, giáo pháp, những lời dạy của Đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác; hoặc chính mình y theo giới luật của Phật tu hành để làm khuôn mẫu cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh. Pháp thí có hiệu quả lâu bền vì giúp cho người hiểu được lẽ thật, phá được vô minh và đạt đến hạnh phúc chân thật. Bởi vậy Pháp thí là một hành động cao quý và có công năng cứu độ, giải thoát hơn cả.

     Nhưng có thể có hai trường hợp khác xa nhau: 

     Bố thí “chấp tướng”: Nghĩa là bố thí với một dụng tâm không trong sạch như cầu danh, cầu tài lợi, hoặc vì ganh đua, hoặc vì bị ép buộc, hoặc cho với một tâm lý khinh rẻ, hối tiếc, phân biệt thân sơ, ưa ghét… Như thế là còn “bám níu lấy hình tướng”, phước đức rất mỏng manh, như mây nổi giữa hư không, gặp gió thổi liền tiêu tan. 

     Bố thí “không chấp tướng”: Nghĩa là bố thí với một dụng ý trong sạch, vì tâm từ bi bình đẳng. Nhận biết tài sản cũng như thân mạng mình đều là giả tạm, vô thường, nên không tham lam, tiếc nuối. Biết cái ngã không có thật, nên khi cho không thấy có kẻ cho và người nhận, không tự cao, tự đại.  Đây mới đúng là bố thí Ba la mật. 

     Pháp bố thí Ba la mật tạo ra công đức không những chỉ riêng cho người nhận, mà lẫn cả người cho nữa. Nó vừa độ người mà vừa độ mình. Có công năng đưa mình và người từ bờ mê lầm đến bờ giác ngộ, từ địa vị phàm phu đến quả vị Bồ Tát. 

 

     Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng từng khuyên chúng sinh là hãy bố thí cho kẻ khác mà không mong đợi một sự hồi đáp nào và cũng không tính toán gì cả. Không vì mong muốn tìm sự thích thú mà bố thí hay là để người khác yêu quý mình, thì như thế mới đúng thật là một hành động bố thí mang lại niềm hạnh phúc cho mình. Đạo đức chính là những gì căn cứ trên lòng quyết tâm giúp đỡ kẻ khác. Điều duy nhất có thể mang tất cả chúng sinh có giác cảm đến gần với nhau chính là tình Thương Yêu. ("108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité.")

 

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

(12 - 2014)



______________________________

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2021(Xem: 9862)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 6331)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7928)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 6114)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
28/01/2021(Xem: 7024)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6998)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 6285)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 4301)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 4586)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 5421)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]