Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ tâm

21/12/201418:29(Xem: 7745)
Từ tâm

bill-gates-2 

 

     Câu chuyện thứ nhất nói về một người được coi như là một vị Bồ Tát của nhân loại. Đó là bà Melinda Gates. Bà sinh năm 1964. Chồng bà là ông Bill Gates sinh năm 1955. Ông là một doanh nhân người Mỹ, nhà từ thiện, tác giả và chủ tịch tập đoàn Microsoft, hãng phần mềm khổng lồ. Ông luôn có mặt trong danh sách những người giàu nhất thế giới. Khối tài sản của ông có khi lên tới 77, 8 tỉ USD.

     Ngay sau khi cưới nhau, hai vợ chồng bắt đầu làm từ thiện nhưng làm một cách dè dặt, trong đó có lần tặng máy vi tính xách tay cho các ngôi làng ở khu vực xa xôi tận Châu Phi. Nhưng rồi hai người nhận ra người dân nơi đây cần thức ăn và thuốc men để chống lại cái chết hơn là máy móc xa xỉ.

     Hai vợ chồng sáng lập ra Quỹ Bill & Melinda Gates, một tổ chức từ thiện đã đóng góp tới $24 tỷ USD cho cứu tế. Quỹ bắt đầu hoạt động với quy mô nhỏ vào năm 1997 rồi chính thức khai trương vào năm 2000.   

     Bà từng nói: “Chúng ta có xem rẻ mạng sống của người Phi châu hơn mạng sống của chúng ta không? Bill và tôi cho rằng không có sinh linh nào mang giá trị hơn hay kém so với sinh linh khác. Chính sự công bằng này là lý do để quỹ từ thiện của chúng tôi hoạt động.”

     Vợ chồng Gates đã cam kết sẽ trao tặng hết 95% tài sản khổng lồ của mình. Hiện ông bà đang có 3 người con nên nhiều người sẽ ngạc nhiên vì thấy ông bà không dành phần lớn tài sản của mình để lại cho con cái. Nhưng Melinda nói: “Các con của chúng tôi đã có tài khoản riêng của chúng. Không phải lúc nào chúng muốn mua gì cũng được mà phải đợi đến những dịp như sinh nhật mới được tặng hay đợi cho đến khi chúng tự để dành đủ tiền”. Hai vợ chồng thống nhất trong việc để dành thừa kế cho các con là sẽ không quá 5% tài sản của họ. Khối tài sản khổng lồ còn lại sẽ trở thành khoản đầu tư từ thiện với mong muốn sẽ đem lại lợi ích cho nhiều người hơn nữa. Tỷ phú Bill Gates từng nói “Tôi không nghĩ rằng việc đưa tiền cho các con là điều tốt cho chúng cũng như toàn xã hội.”  

     Quỹ Bill & Melinda Gates đã chi cho nhiều dự án cứu tế, từ thiện, y tế và giáo dục. Trải qua 7 năm hoạt động, dưới sự điều hành của Melinda, quỹ đã góp phần cứu sống ít nhất 700.000 người tại các quốc gia nghèo thông qua các khoản đầu tư vào những chương trình vaccine. Hiện nay đây là quỹ từ thiện lớn nhất thế giới, với tài sản lên tới 29,1 tỉ USD và luôn đi đầu trong chiến dịch nâng cao sức khỏe cộng đồng trên quy mô quốc tế.

     Theo tạp chí Forbes thì bà Melinda Gates là một trong 10 người phụ nữ có quyền lực nhất thế giới.

*

Warren Buffett

     Câu chuyện thứ hai là về tỷ phú Warren Buffett. Ông là một nhà đầu tư và cũng là một nhà từ thiện nổi tiếng trên thế giới. Ông đã từng tuyên bố sẽ dành 99% số tài sản của mình để làm từ thiện, ngay cả khi ông còn sống hay sau khi ông qua đời. Theo tạp chí Fortune, tỷ phú Warren Buffett sẽ thực hiện lời hứa của mình khi quyết định quyên góp 83% số tài sản của mình vào quỹ từ thiện do vợ chồng tỷ phú Bill Gates thành lập (như đã nói ở trên).

     Tỷ phú Warren Buffett cho biết ông không hề lo lắng về con cái của mình. Trong một lá thư gửi tới tổ chức từ thiện của Bill Gates, ông viết “Tôi chỉ đưa cho con mình đủ tiền để chúng biết rằng chúng có thể làm bất cứ điều gì mình muốn, nhưng cũng không quá nhiều khiến chúng tưởng rằng chúng chẳng cần làm gì cả.”

*

     Câu chuyện thứ ba đề cập tới Châu Nhuận Phát, một diễn viên Hồng Kông nổi tiếng trong suốt 20 năm qua. Ông là một trong những ngôi sao lớn nhất của điện ảnh Hồng Kông thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Từ giữa thập niên 1990, ông bắt đầu chuyển hướng sang Hollywood. Ông tỏ ra uy nghiêm và rất phong độ khi thể hiện vai Ngọc Hoàng Đại Đế trong siêu phẩm Đại Náo Thiên Cung.

     Ông lập gia đình. Vợ chồng lấy nhau đã 28 năm nhưng không có con cho nên ông muốn tặng hết 99% số tiền kiếm được cho những người nghèo khó cần giúp đỡ.

     Châu Nhuận Phát sinh năm 1955 trong một gia đình nghèo. Khi còn nhỏ ông thường phải dậy sớm để giúp mẹ bán đồ điểm tâm trên phố rồi buổi chiều lại phải ra đồng làm việc. Năm lên 10 tuổi thì cả gia đình chuyển đến Cửu Long. Năm 17 tuổi ông phải bỏ học để giúp đỡ gia đình bằng nhiều nghề khác nhau như trực khách sạn, đưa thư, bán máy ảnh và tài xế taxi.

     Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo lại có người cha ham mê cờ bạc nên ông đã phải trải qua mọi vất vả, cực khổ. Đó là lý do khiến ông dễ cảm thông với những người khốn khổ trong xã hội. Ông có ý định sẽ dùng gần trọn gia tài của mình, ước tính hơn 1 tỷ đô la HK (khoảng 130 triệu USD) để giúp đỡ cho người nghèo. Ông chỉ dành lại 1% cho cuộc sống của hai vợ chồng mà thôi.

     Dù là một ngôi sao quốc tế, từng ăn những món cao lương mỹ vị, ở những khách sạn sang trọng bậc nhất nhưng Châu Nhuận Phát không dùng xe hơi đắt tiền, không dùng điện thoại smartphone và những thứ đắt tiền khác. Hằng ngày khi cần di chuyển, vợ chồng ông đi tàu điện, đón xe bus. Ông nói một cách khôi hài là: “Trong tàu điện hay xe bus mọi người đều cắm đầu vì bận sử dụng smartphone nên không có ai thèm để mắt đến mình khi mình bước vào nên chẳng lo bị làm phiền chi cả!”

     Để có được khối tài sản lớn như hiện tại, Châu Nhuận Phát cho biết ông đã phải tiết kiệm từng đồng một, tích trữ hết ngày này qua ngày khác chứ không phải dễ dàng gì.  

     Được hỏi về tin ông sẽ tặng đến 99% gia tài của mình cho người nghèo khổ, ông nói: “Đúng vậy, tôi cảm thấy thật sự đó không phải tiền của tôi. Tôi chỉ giữ giùm tạm thời thôi. Tôi sẽ dứt khoát hiến tặng lại tất cả. Tôi sẽ trao tặng lại cho các công tác từ thiện vì chính nơi đó mới cần đến hơn!” (I will definitely donate it all! I will give it to charities that need it the most.)

*

     Và câu chuyện thứ tư là tin tức từ Seatle, WA cho biết có một ông cụ lớn tuổi tên là Jack MacDonald. Cụ sống rất đạm bạc và qua đời vào tháng 9 năm 2013 ở tuổi 98. Cụ đã bí mật để lại cái gia tài $188 triệu USD cho các công tác từ thiện (Frugal Seattle man leaves $188M secret fortune).

     Cụ thường cố tình mặc áo quần vá víu, khuỷu tay áo bị rách. Cụ đi xe bus thay vì đi taxi. Cụ để lại cho cho bệnh viện Seattle Children's Research Institute một món tiền lớn nhất từ trước đến nay, dành cho việc nghiên cứu sức khỏe trẻ em. Tiền được trích từ quỹ từ thiện $188 triệu của cụ.

     Cụ đã hoạt động từ thiện bí mật trong nhiều thập niên. Chỉ có một vài thân nhân và thân hữu biết được là cụ ông có nếp sống rất đơn giản và đạm bạc. Trong vòng 40 năm qua, cụ đã sử dụng tài đầu tư chứng khoán, chọn mua cổ phiếu, để biến gia tài cha mẹ để lại cho cụ được hưởng, là  Công Ty MacDonald Meats của bố cụ, thành một tài sản khổng lồ, dành cho mục đích giúp đời.

     Được biết cụ cũng để lại một phần quỹ từ thiện của mình cho University of Washington School of Law (nơi cụ đã tốt nghiệp môn Luật vào năm 1940) và Salvation Army.

     Cụ từng phục vụ tại Nam Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ II trước khi trở thành một luật sư của Veterans Administration, hỗ trợ hàng trăm hội thiện nguyện khác nhau với tiền lương và tiền lời do nguồn đầu tư của mình, trong đó có $ 536,000 cụ đóng góp để xây một ngôi làng tại Canada mà ông nội của cụ đã di dân đến từ Scotland.

     Thủ quỹ của Seattle Children's Research Institute cho biết cụ là người rất khiêm nhường, sống ẩn dật, hay thăm viếng bệnh viện và tỏ ra thông cảm với bệnh nhân và người nhà của họ. Cụ rất yêu thích những câu chuyện bình phục của người bệnh, nói rằng những câu chuyện này chứa nhiều niềm hy vọng, khiến cụ xúc động, và muốn hiến gia tài của mình cho việc nghiên cứu y khoa.

 

                                                                           *
     Ngoài các chuyện kể trên người ta lại thường nói tới một số nhân vật khác. Những người này tuy giàu có nhưng lại không muốn để hết gia tài lại cho con cháu mình:

     Pierre Omidyar là ông chủ eBay. Trở thành tỷ phú khi mới 31 tuổi. Theo tạp chí Forbes, tỷ phú người Pháp này đã dành toàn bộ công sức cũng như tiền bạc của mình để giúp đỡ những người kém may mắn, thay vì dành toàn bộ tài sản cho 3 con. Vào năm 2010, Pierre Omidyar đã tham gia vào tổ chức từ thiện do tỷ phú Gates và Buffett thành lập.

     Michael Bloomberg là thị trưởng Thành phố New York, được trả lương tượng trưng là 1 đô la cho chức vụ này, bởi ông có số tài sản to lớn là 19,5 tỷ USD. Ông cũng dành phần lớn tài sản để quyên góp cho trường Đại Học Johns Hopkins, cho tổ chức Carnegie và hàng nghìn các tổ chức phi lợi nhuận khác.

     Gina Rinehart là người phụ nữ giàu nhất Australia. Bà muốn loại bỏ tên của 4 người con ra khỏi danh sách thừa kế của gia đình. 

     Bernard Marcus là Chủ tịch bán lẻ hàng nội thất Home Depot. Ông sở hữu số tài sản 1,5 tỷ USD. Tuy nhiên, ông cũng không muốn con cái thừa kế số tài sản của mình. Ông từng cho biết sẽ quyên góp phần lớn số tài sản của mình cho giáo dục và những trẻ em khuyết tật.

    Jackie Chan, ngôi sao truyền hình nổi tiếng, vào năm 2011 đã quyết định dành một nửa số tiền của mình làm từ thiện sau khi ông qua đời. Ông cũng cho biết ông không hề có ý định để lại số tài sản cho đứa con trai. Ông nói “Nếu có khả năng, con trai tôi sẽ tự kiếm tiền bằng công sức của nó. Còn nếu không, nó sẽ chỉ lãng phí tiền của của tôi mà thôi.”

*


    
Các câu chuyện kể trên liên quan tới những con người thật, sự việc thật, đã đưa ra chân lý cho một câu nói cổ xưa rằng: “Phúc tại tích thiện, họa tại tích ác”. Thiện lương và đức hạnh của một người giống như kho trữ vàng có thể dùng mãi mà không cạn. Khi mà ta đang giúp người khác, thực sự là ta đang giúp chính mình vậy.

     Đức Phật từng giảng cho một thanh niên thắc mắc về sự bất đồng giữa các chúng sinh: “Tất cả chúng sinh đều mang theo cái nghiệp của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa. Chính vì cái nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa chúng sinh”…

     “Nếu người kia không bao giờ biết bố thí vật gì. Do tính keo kiết, bám víu vào tài sản sự nghiệp của mình, nếu tái sinh trong cảnh người, sẽ là người nghèo nàn thiếu thốn. 

     Nếu người kia giàu lòng quảng đại, tính ưa bố thí. Do lòng quảng đại rộng rãi ấy, nếu tái sinh trong cảnh người, sẽ là người giàu có dư dả.”

     Trong một đoạn khác Phật dạy: “Ta là kẻ thừa hưởng kết quả của hành vi tạo tác của ta như một di sản từ quá khứ truyền lại.” Kinh Pháp Cú:


(Pháp Cú 53)

Như từ một đống hoa tươi

Lựa ra ghép lại cho đời tràng hoa

Nhiều tràng phô sắc mặn mà,

Người đời cũng vậy khác xa đâu nào

Thân tâm an lạc, thanh cao

Làm nên việc thiện kể sao cho vừa.


     Truyện tích kể rằng người kia giàu có nhưng keo kiết. Ông có năm hũ vàng chôn giấu trong nhà nhưng không cho con biết. Đến lúc chết, ông ta tái sinh làm một người ăn xin có hình tướng xấu xa. Ngày nọ, tình cờ ông đi đến cái nhà của ông trong kiếp sống trước, nhưng khi bước vào thì bị con và người nhà cột trói lại và vứt trên một đống rác. Đức Phật đi ngang qua thấy vậy mới lưu ý người chủ nhà rằng ông kia chính là cha của anh trong kiếp trước. Anh không tin. Đến khi được biết chuyện năm hũ vàng, anh về nhà đào lên thấy đúng. Đức Phật chỉ rõ cho thấy rằng kẻ cuồng si trong cuộc đời cứ lo nghĩ về cái “ta” giả tạo mãi, không biết rằng chính mình cũng không phải là của mình nữa huống chi là con cái, là tài sản của mình:


(Pháp Cú 62)

“Đây là con cái của tôi

Đây là của cải mấy đời chắt chiu!”

Người ngu chỉ nghĩ bấy nhiêu

Nào hay biết được một điều thâm sâu:

Chính thân ta cũng có đâu

Mà đòi con nọ, mà cầu của kia.

 

     Người Phật tử tu hạnh Bồ Tát ngoài mười điều thiện, phải tu tập pháp “Lục Độ Ba La Mật”. Lục là sáu. Độ là vượt qua. Ba la mật nguyên âm tiếng Phạn là Paramita, người Trung hoa dịch nghĩa là “bỉ ngạn đáo”, nói theo tiếng Việt là “đến bờ bên kia”.

     Đây là sáu món tu tập có công năng như một chiếc thuyền, đưa mình từ bờ bên này, bờ vô minh của thế gian, vượt sang bờ bên kia, bờ giác ngộ của chư Phật. Kẻ tu hành muốn đến bờ giải thoát hoàn toàn, cần phải tu cả phước lẫn tuệ. Tu phước gồm có: “bố thí, trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục”. Tu tuệ là “thiền định và trí tuệ”

     Người Phật tử, khi noi theo dấu chân Phật, cũng phải thể hiện được lòng từ bi và làm cho nó tăng trưởng. Mầu nhiệm nhất là thực hành pháp môn “bố thí ba la mật”.

     “Bố” nghĩa là rộng rãi, cùng khắp. “Thí” là cho, là trao tặng. “Bố thí Ba la mật” gồm hai loại là “tài thí” và “pháp thí” sau đây:    

     Tài thí là đem tiền bạc, của cải, vật thực của mình ra cho người thiếu thốn. Đôi khi đem những vật quý báu nhất của mình như thân mạng, đời sống của mình để cứu vớt kẻ khác ra khỏi nguy nan.

     Pháp thí là đem chân lý, giáo pháp, những lời dạy của Đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác; hoặc chính mình y theo giới luật của Phật tu hành để làm khuôn mẫu cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh. Pháp thí có hiệu quả lâu bền vì giúp cho người hiểu được lẽ thật, phá được vô minh và đạt đến hạnh phúc chân thật. Bởi vậy Pháp thí là một hành động cao quý và có công năng cứu độ, giải thoát hơn cả.

     Nhưng có thể có hai trường hợp khác xa nhau: 

     Bố thí “chấp tướng”: Nghĩa là bố thí với một dụng tâm không trong sạch như cầu danh, cầu tài lợi, hoặc vì ganh đua, hoặc vì bị ép buộc, hoặc cho với một tâm lý khinh rẻ, hối tiếc, phân biệt thân sơ, ưa ghét… Như thế là còn “bám níu lấy hình tướng”, phước đức rất mỏng manh, như mây nổi giữa hư không, gặp gió thổi liền tiêu tan. 

     Bố thí “không chấp tướng”: Nghĩa là bố thí với một dụng ý trong sạch, vì tâm từ bi bình đẳng. Nhận biết tài sản cũng như thân mạng mình đều là giả tạm, vô thường, nên không tham lam, tiếc nuối. Biết cái ngã không có thật, nên khi cho không thấy có kẻ cho và người nhận, không tự cao, tự đại.  Đây mới đúng là bố thí Ba la mật. 

     Pháp bố thí Ba la mật tạo ra công đức không những chỉ riêng cho người nhận, mà lẫn cả người cho nữa. Nó vừa độ người mà vừa độ mình. Có công năng đưa mình và người từ bờ mê lầm đến bờ giác ngộ, từ địa vị phàm phu đến quả vị Bồ Tát. 

 

     Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng từng khuyên chúng sinh là hãy bố thí cho kẻ khác mà không mong đợi một sự hồi đáp nào và cũng không tính toán gì cả. Không vì mong muốn tìm sự thích thú mà bố thí hay là để người khác yêu quý mình, thì như thế mới đúng thật là một hành động bố thí mang lại niềm hạnh phúc cho mình. Đạo đức chính là những gì căn cứ trên lòng quyết tâm giúp đỡ kẻ khác. Điều duy nhất có thể mang tất cả chúng sinh có giác cảm đến gần với nhau chính là tình Thương Yêu. ("108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité.")

 

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

(12 - 2014)



______________________________

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5613)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6926)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4317)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9153)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5486)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5117)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5710)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6204)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5218)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]