Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Nụ Cười Myanmar

11/03/201407:26(Xem: 5671)
01. Nụ Cười Myanmar


Nu_Cuoi_Myanmar_1
Nụ cười Myanmar

Đây không phải là lần đầu tiên tôi đến với đất nước vàng Golden Land Myanmar. Vùng đất và con người nơi đây luôn thôi thúc tôi quay lại và muốn quay lại nhiều lần. Là người đã có đến mấy trăm chuyến ngao du đến hơn bốn mươi quốc gia nhưng Myanmar đặc biệt cuốn hút tôi. Chẳng vậy mà chuyến đi trước mới diễn ra vào tháng 6 mà ngay sau khi kết thúc Tết Sách trên đường Nguyễn Huệ, ngày mồng 5 tết chúng tôi đã lên đường.

Đón chúng tôi ở sân bay Yangon là những nụ cười. Bạn sẽ phản ứng, bởi ở sân nay nào mà các nhân viên cửa khẩu và hải quan chẳng vui cười đón khách du lịch (thậm chí ngay tại sân bay hay cửa khẩu Việt Nam bây giờ cũng có cả nụ cười đón và tiễn bạn nữa mà), bởi họ mang lại nguồn thu lớn cho quốc gia. Tuy nhiên tôi đặc biệt ấn tượng với nụ cười Myanmar vì những nụ cười này đặc biệt hiền hậu.

Tôi có cảm giác người Myanmar cười từ trái tim của mình, từ đáy lòng mình. Họ cười không xã giao, không khách sáo. Họ cười hồn nhiên và tự nhiên như chúng ta vẫn thở. Họ cười như thế không cười thì chết mất. Họ cười nhẹ nhàng và sâu lắng. Họ cười ấn tương và bắt ta phải nhớ. Lạ lắm.

Người cười đẹp nhiều nhất với chúng tôi là những người bạn địa phương đồng hành cùng trên mỗi chuyến đi. May mắn thay khi 16 chúng tôi đều đi đâu cũng có bạn người địa phương đồng hành tuyệt diệu đến vậy. Họ rất hiểu biết và khiêm nhường. Rất mến khách và tràn ngập năng lượng. Họ là những con người rất đặc biệt – hình như chỉ biết mang niềm vui cho người khác. Họ nhiệt tình đến lạ kỳ. Nụ cười luôn nhẹ nhàng trên môi họ dù có mệt đến mấy. Phải chăng vì biết chúng tôi là con Phật nên họ không muốn chúng tôi buồn?
Nu_Cuoi_Myanmar_8

Vào bất cứ nơi nào, bất cứ chùa hay tu viện nào, bất cứ danh lam thắng cảnh hay khu du lịch nào, các bạn Myanmar cũng cười rất tươi. Ngay cả những người bán hàng.

Tôi nhớ nhất những em bé bán hàng rong. Có đến gần chục đứa bé như vậy làm cho tôi nhớ. Bởi các cháu rất dễ thương. Bởi nụ cười nhẹ nhàng rất hấp dẫn. Mua hay không cũng không quan trọng. Kiểu gì các cháu cũng vô tư cũng tặng cho chúng tôi những nụ cười hồn nhiên.

Có 1 bé đi bán mũ. Mỗi chiếc mũ là 1 đô la hoặc 1 ngàn chạt. Tôi không mua. Cả đoàn cũng không ai mua vì chúng tôi dã mang theo từ Việt Nam rồi. Em vẫn theo để nói chuyện. Cuối cùng tôi tặng em 1 ngàn chạt. E không tỏ ra mừng rỡ mà rất bình thản. Thay vì nhận được chiếc mũ tôi nhận được những nụ cười chất phác đến sững sờ. Nhớ lắm bé ơi.

Trên đường leo núi, chúng tôi thấy những người đội đá. Trên đầu họ là những viên đá rất lớn. Họ đội lên đề xây chùa. Mùa hôi đầm đìa. Vậy mà gặp chúng tôi họ vẫn tặng những nụ cười.

Chúng tôi gặp những người gùi hàng thuê cho các đoàn leo núi, gặp những nhóm 4 người khênh khách du lịch lên cao. Mồ hôi thấm đẫm những chiếc áo. Vậy mà họ vẫn cười rất tươi với chúng tôi.

Tôi ấn tượng với những người đánh xe ngựa ở Bagan. Họ hiền lành lắm. Nhưng họ cười đẹp và thánh thiện vô cùng. Rồi tôi tiếp xúc với những con ngựa của họ. Tôi vuốt ve những chú ngựa để động viên và cám ơn. Tôi cảm nhận được cả sự mừng vui và những nụ cười của ngựa. Lạ vô cùng.
Nu_Cuoi_Myanmar_7Nu_Cuoi_Myanmar_6Nu_Cuoi_Myanmar_3

Chúng tôi gặp con người Myanmar ở khắp mọi nơi, với mọi lứa tuổi. Có môt nét chung của họ: những nụ cười rất thật thà. Mọi người trong đoàn cho rằng, bởi Myanmar là đất nước Phật giáo, phần lớn dân số đất nước này theo đạo Phật, nên chất Phật dã ngấm sâu vào họ từ lúc chưa sinh ra. Vậy nên họ rất bình an và nhẹ nhàng, chan chứa yêu thương và bao dung. Vậy nên tâm từ bi của họ toát ra bên ngoài, hiện lên từng khuôn mặt.

Thêm chuyến đi này, tôi càng ấn tượng và ghi nhớ sâu sắc nụ cười Myanmar. Đoàn chúng tôi có 16 thành viên và khi về đến sân bay Tân Sơn Nhất, theo gợi ý của chị Hoa, chúng tôi cam kết nhắc nhau mỉm cười. Mỗi khi gặp nhau hoặc khi nghĩ về nhau, chúng tôi luôn gửi thông điệp cho nhau “nụ cười Myanmar”. Và khi đó ai cũng thấy nhẹ nhõm, thanh thản và bình yên đến lạ kỳ.

Bạn có tin không? Nếu không hãy đến xử sở của “nụ cười Myanmar” dù chỉ một lần. Hoặc dành vài phút ngắm những bức hình này nhé. Rồi bạn không thể không yêu những nụ cười và những con người Myanmar.

TS Nguyễn Mạnh Hùng – Công ty sách Thái Hà

Mời đón đọc các bài tiếp theo:

2, Thật thà như người Myanmar

3, Giàu có như đất nước và con người Myanmar

4, Phật tử Myanmar

5, Tu Phât như ở Myanmar

6, Bình an như Myanmar

7, Tượng Phật ở Myanmar

8, Kinh sách và đọc như ở Myanmar

9, Bí mật Myanmar

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 4998)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4260)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5123)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5339)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8130)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6261)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5706)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4337)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9284)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5817)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]