Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Tu P­­hật như ở Myanmar­

20/03/201418:58(Xem: 6817)
05. Tu P­­hật như ở Myanmar­


Phat_tu_Myanmar (1)
Tu P­­hật như ở Myanmar­

Ở Myanmar ai ai cũng tu. Nhìn những khuôn mặt luôn vui tươi của họ, tôi biết rằng họ đã an lạc lắm rồi, họ đã gần niết bàn hơn chúng ta rồi.

Tôi có anh bạn hay dẫn đi chơi ở Myanmar. Rồi tôi về thăm nhà bạn ấy. Tôi chơi rất lâu với gia đình, nhất là cậu em trai. Hỏi chuyện mới biết cậu ta đi làm mỗi ngày được 2 đô la. Tôi rút ví ra tặng cậu 10 đô la. Thế là cậu nói ngay rằng cậu sẽ xin nghỉ làm 1 tuần. Tôi hỏi tại sao. Cậu bảo, có 10 đô la của tôi tức không cần đi làm 1 tuần. Và cậu sẽ xin vào chùa tu 7 ngày.

Tôi giật mình. Trời Phật ơi, sao mà họ nghĩ đơn giản thế. Sao mà tâm họ tuyệt vời đến thế. Sao mà họ tu hay thế. Tôi giật mình nghĩ về mình: Hùng ơi, cậu tham quá, cậu muốn nhiều quá, cậu si mê thật rồi!

Ở Myanmar các bạn trẻ thường xuất gia gieo duyên. Tình cờ có 1 lần tôi được chứng kiến lễ xuất gia của mấy bạn trẻ. Gia đình thuê xe chạy khắp thành phố. Phía trước là cờ Phật, ảnh Phật và hoa tươi. Nhạc và những bài kinh tụng được phát vang xa, ấm cúng, rộn ràng. Các gia đình có con xuất gia vui tươi, ăn mặc đẹp. Họ đến lễ tại các đền chùa, nấu cơm chay chiêu đãi bà con linh đình. Để tất cả mừng cho họ có con xuất gia.

Tôi lại giật mình nghĩ về 1 đồng nghiệp của tôi tại công ty sách Thái Hà khi xuất gia chúng tôi cũng đã rất vui và liên hoan vui mừng. Ấy vậy mà mẹ của em đó đã ngất phải vào viện cấp cứu. Bố bạn ấy cũng chán nản. Họ còn dọa kiện tôi, Tổng giám đốc, vì đã để cho họ mất con. Họ bảo, nuôi học bao năm, tốn bao tiền của, công sức, nay con xuất gia là họ mất con. Họ muốn con đi làm, lấy chồng, đẻ con,… Mô Phật! Tôi thầm mong 2 bác có 1 dịp đi Myanmar và dự lễ xuất gia của những người cha người mẹ ở đây.

Phat_tu_Myanmar (6)Phat_tu_Myanmar (5)

Tác giả đặt bát cúng dường Chư Tăng Miến Điện

Phat_tu_Myanmar (4)Phat_tu_Myanmar (3)Phat_tu_Myanmar (2)

Tôi đã dành cả tiếng đồng hồ để đi theo 1 đoàn các tu nữ tý hon tại Mandalay. Các cô bé còn rất bé đã xuất gia và mặc những bộ áo tràng màu hồng thật đáng yêu, thật đẹp. Họ vui tươi ca hát và tụng kinh. Họ đi khất thực trong các khu dân cư. Tôi đi theo và ngẩn người ra. Ước gì mình được như họ. Đẹp và đáng yêu lắm. Tu từ nhỏ vậy thì lớn lên sẽ là những người rất tốt rồi.

Cũng vì đi theo để cảm nhận sự tuyệt vời của các vị tu nữ ít tuổi tôi đã chứng kiến nhiều em bé cúng dàng. Ở Việt Nam nếu có cúng dàng các nhà sư thì chủ yếu là người lớn tuổi. Hoăc các em nhỏ được người lớn hướng dẫn cúng dàng. Còn ở Myanmar, các bé nhỏ làm việc này rất tự nguyện. Tôi cứ đứng ngắm mãi cậu bé đứng xúc từng thìa gạo cúng cho rất nhiều tu nữ. Xúc động lắm.

Người dân Myanmar chưa giàu có về vật chất. Ấy mà họ mở ra rất nhiều trường thiền, tu viện, học viện Phật giáo. Người tu và học ở đây đâu có chỉ dân bản xứ mà người từ nhiều nước trên thế giới. Trong chuyến đi Myanmar lần này, chúng tôi từ sân bay đi thẳng về Học viện Phật giáo Nguyên thủy Quốc tế Yangon. Có đến đây mới biết, riêng Việt Nam ta đã có 52 học viên, trong đó có 51 quý tăng và ni và 1 cư sỹ. Tôi lặng người nghĩ về tấm lòng của những bạn tu Myanmar. Họ tu và tạo mọi điều kiện cho tất cả cùng tu. Bạn cứ đến đây 1 lần đi để biết họ đã có ngôi trường tuyệt vời thế nào. Cảnh trong trường rất đẹp, cơ sở vật chất rất tốt, các thầy cô giáo thì tuyệt vời.

Myanmar cũng có rất nhiều thiền viện. Đây là nơi tu tập của các nhà sư. Các Phật tử trong và ngoài nước thường tới thiền viện để tỏ lòng kính trọng và cúng dường: thức ăn, tiền bạc, áo cà sa và vật dụng. Phật tử có thể lưu lại cả tuần, cả tháng, cả năm trong thiền viện để thực tập thiền, nghe thuyết pháp hay nghiên cứu Phật pháp. Tôi có mấy anh bạn đến đây tu rồi. Họ ở đây 3 tháng. Sau 3 tháng về nước tôi thấy tâm họ thay đổi hẳn. Có người còn tu ở bên các thiền viện 6 tháng. Tôi hay đến thăm giao lưu với họ khi họ về nước. Thật là tuyệt vời. Tuyệt không thể tả được.

Người Myanmar không uống bia, rượu. Bạn rất khó tìm thấy các quán nhậu như ở Việt Nam ta. Phải công nhận là họ giữ giới rất tốt. Ở đây là giới thứ 5: không sử dụng rượu bia và các chất kích thích. Còn ở Việt Nam ta thì sao: vừa trưa qua tôi trả lời phỏng vấn về nguyên nhân bia rượu nhiều ở Việt Nam, tác hại và giải pháp. 11h30 trưa thứ 7 này sẽ phát trên kênh VTV1 trong chương trình “Câu chuyện văn hóa”. Tôi mong sao con số 9 tỷ lít bia hoặc 100 chai bia mỗi người Việt uống 1 năm làm giật mình những ai chưa mắc bệnh nan y. Tôi mong họ 1 lần đến những đất nước Phật giáo, như Myanmar yêu quý chẳng hạn.

Người Myanmar coi việc tu tập như ta ăn và uống. Hàng ngày ta vẫn ăn, họ thì hàng ngày tu. Kiếp người ngắn lắm, đâu có thời gian để hoang phí. Ai đó quanh tôi còn dùng cụm từ “giết thời gian”. Than ôi, sy mê đến vậy là cùng.

Tự nhiên tôi muốn lập ra nhóm “khuyến tu” để khuyến khích tất cả những ai muốn tu. Tôi muốn học các bạn Myanmar. Muốn lắm.

TS Nguyễn Mạnh Hùng – Công ty sách Thái Hà

Mời đón đọc các bài tiếp theo:

6, Bình an như Myanmar

7, Tượng Phật ở Myanmar

8, Kinh sách và đọc như ở Myanmar

9, Bí mật Myanmar

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 4254)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5120)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5338)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8130)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6256)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5704)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4337)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9283)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5817)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7120)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]