Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Kết: Và Cuộc Sống Này Chỉ Là Để Yêu Thương!

25/02/201102:45(Xem: 5049)
Lời Kết: Và Cuộc Sống Này Chỉ Là Để Yêu Thương!
 
CHÌA KHÓA SỐNG THANH THẢN
Lại Thế Luyện

LỜI KẾT: VÀ CUỘC SỐNG NÀY CHỈ LÀ ĐỂ YÊU THƯƠNG!

Lý do gì mà chúng ta sống trên đời? Tôi ước gì mình hiểu được một cách sâu sắc lý do đó. Đôi lúc, tôi cảm thấy cuộc sống của mình chẳng còn hy vọng vào một điều gì hết. Những lúc cuộc đời lâm vào bế tắc, tôi thấy đời mình chỉ còn là bóng tối và tuyệt vọng. Và theo cách nghĩ thông thường của nhiều người, bóng tối chẳng phải là điều hay ho, tốt đẹp gì. Ốm đau và cái chết là những điều đang rình rập cuộc sống của tất cả chúng ta.

Lý do căn bản nhất để hy vọng trong cuộc sống là hãy biết yêu thương. Không có tình yêu thì sẽ không có hy vọng. Và nếu không có hy vọng thì cũng chẳng có cuộc sống, cũng như chẳng có cái gọi là “ý nghĩa của cuộc sống”. Con người ta được sinh ra, có mặt trên cuộc đời này là để yêu thương và cùng hy vọng vào một ngày mai.

Khi bóng tối bao trùm lên tất cả, ánh sáng chỉ thu vào một góc. Khi chúng ta quan tâm sâu sắc đến một người nào đó, chúng ta thường ao ước dành mọi điều tốt nhất cho người đó, ngay cả phải hy sinh một phần những điều thiết yếu trong cuộc sống của mình, và chúng ta cũng chẳng hề cảm thấy tiếc. Đó cũng là lý do giải thích vì sao trong cuộc sống có những lúc chúng ta quan tâm lo lắng cho người khác trong cảnh hoạn nạn với tất cả tấm lòng của mình, cho dù đó là một người hoàn toàn xa lạ. Bởi lẽ, những khi ấy chúng ta luôn luôn tự vấn lương tâm mình rằng, nếu mình không chịu giúp đỡ người ta trong hoàn cảnh nghiệt ngã đó, thì người ta còn biết xoay xở ra sao, trong khi bản thân mình hoàn toàn có đủ điều kiện? Khi làm như vậy, chúng ta có thực sự cảm thấy cuộc đời có ý nghĩa hay không? Vì sao có những lúc chúng ta nhìn những thảm kịch trong cuộc đời bằng đôi mắt thất vọng? Sao những lúc ấy chúng ta không dành tình yêu thương của mình nhiều hơn cho những người khác trong cuộc sống? Chúng ta vẫn còn lý do để tiếp tục yêu thương, và do đó, vẫn còn lý do để tiếp tục hy vọng. Chúng ta phải cảm ơn cuộc đời đã cho chúng ta những cơ hội để đau khổ, để rồi từ trong đau khổ ấy, ta mới biết đồng cảm với những đau khổ của nhiều người khác nữa, để yêu thương người khác nhiều hơn!

Và khi làm như vậy, ta luôn cảm thấy tâm hồn mình thanh thản và tự do. Bởi khi đó, cái tôi ích kỷ chẳng còn chỗ ngự trị trong tâm hồn ta nữa. Sự thanh thản này trong tâm hồn, muốn có được, rất dễ nhưng cũng lại rất khó. Nó dễ khi chúng ta luôn có thói quen sống yêu thương người khác từ trước đến nay. Nhưng nó sẽ rất khó khăn và khó có thể đạt được khi lâu nay chúng ta chỉ quen sống với cái tôi ích kỷ của mình. Nếu khi nghe điệp khúc “hãy yêu thương người khác” mà chúng ta lại cảm thấy sao lạ tai và khó nghe quá đỗi, thì quả thực sự ích kỷ trong tâm hồn chúng ta đã dâng cao đến mức báo động rồi! Muốn vượt lên được nỗi lòng ích kỷ ấy, chúng ta cần phải có một nghị lực phi thường mới được! Đó sẽ là một cuộc đọ sức gay go mà phần chiến thắng sẽ là một tâm hồn cao thượng và biết yêu thương người khác. Đó là một sự chiến thắng rất vẻ vang và rất đáng mơ ước – một chiến thắng mà mỗi người đều phải làm nên trong cuộc đời mình!

Và như vậy, mỗi người chúng ta khi sinh ra trong cuộc đời này đều mang trong mình những quyền rất thiêng liêng, đó là quyền được yêu thương người khác và quyền được hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn, có phải vậy không? Sẽ thật hạnh phúc nếu mỗi chúng ta tiếp tục suy nghĩ về bí quyết tìm kiếm sự thanh thản trong cõi lòng, và giúp mọi người cùng tìm kiếm. Được như vậy, chắc chắn cuộc sống của mỗi người chúng ta sẽ ngày càng trở nên tốt đẹp hơn!

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5521)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5429)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6842)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4234)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 8738)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5387)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5003)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5609)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6120)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5142)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]