Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Phương Đông Là Cha Mẹ

25/02/201110:43(Xem: 5920)
3. Phương Đông Là Cha Mẹ

SUỐI NGUỒN YÊU THƯƠNG
Tâm Chơn

PHƯƠNG ĐÔNG LÀ CHA MẸ

Kinh Thiện Sanh (trong kinh Trường A Hàm) hay Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (trong kinh Trường Bộ) là một bản kinh ngắn dạy về đời sống và các mối quan hệ đạo đức trong xã hội loài người. Nói rõ hơn, trong kinh đức Phật đã nêu lên một cách đầy đủ về lãnh vực tu thân và xử thế của người Phật tử tại gia. Trong đó có đề cập đến năm nguyên tắc đạo đức của con cái đối với cha mẹ và năm nguyên tắc đạo đức của các bậc cha mẹ đối với con cái.

Sau đây là đoạn kinh Thiện Sanh bàn về chữ hiếu:

“Phật dạy: Cha mẹ là phương Đông… Phàm làm con phải kính thuận cha mẹ với năm điều: Cung phụng hiếu dưỡng cha mẹ không để thiếu thốn, muốn làm gì trước phải thưa cho cha mẹ biết, không trái điều cha mẹ làm, không trái điều cha mẹ dạy, không cản việc làm lành của cha mẹ. Ngược lại, cha mẹ chăm sóc con cái với năm điều: Ngăn con không cho nghe và làm điều ác, chỉ dạy cho con những điều lành, thương yêu con thắm thiết, chọn nơi hôn phối tốt đẹp cho con, tùy thời cung cấp đồ cần dùng cho con.”

Nội dung bản kinh thể hiện rõ nét quan điểm nhân sinh tích cực của đạo Phật theo cả hai truyền thống Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền.

Ở đây, chúng tôi xin gửi đến bạn đọc một phần lược trích từ bản kinh này.

“Tôi nghe như vầy.
“Một thời Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, thành La-duyệt-kỳ… Vào buổi sáng, Ngài đi vào thành khất thực.

“Bấy giờ, Phật trông thấy chàng thanh niên tên Thiện Sanh đang chắp tay kính lạy các phương đông, tây, nam, bắc, trên, dưới liền đến gần thăm hỏi nguyên do. Thiện Sanh thưa rằng chàng tuân theo lời căn dặn của cha trước lúc người chết.

“Sau đó, Thiện Sanh thỉnh cầu Phật giảng giải ý nghĩa lễ sáu phương.

“Phật dạy: ‘Nếu người nào biết tránh bốn trường hợp đưa đến nghiệp ác (sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ) là tham dục, sân hận, ngu si, sợ hãi; tránh được sáu điều phung phí tài sản là đam mê rượu chè, cờ bạc, phóng đãng, đam mê kỹ nhạc, giao du bạn xấu và lười biếng, thì cũng chính là lễ kính sáu phương. Người ấy, hiện đời được quả báo tốt đẹp, sau khi chết được sanh cõi lành, thiên giới.’

“Lại nữa, Phật dạy:

– Uống rượu có sáu điều lỗi: Hao tài, sanh bệnh, đấu tranh, tiếng xấu đồn khắp, bộc phát nóng giận, trí tuệ giảm dần.

– Cờ bạc có sáu điều tai hại: Tài sản hao hụt, thắng thì gây thù oán, bị kẻ trí chê, mọi người không kính nể tin cậy, bị xa lánh, sanh tâm trộm cắp.

– Phóng đãng có sáu lỗi: Không tự phòng hộ mình, không phòng hộ được tài sản và hàng hóa, không phòng hộ được vợ con, thường hay bị sợ hãi, bị những điều khốn khổ ràng buộc xác thân, ưa sinh điều dối trá.

– Mê kỹ nhạc có sáu lỗi: Luôn tìm đến chỗ ca hát, nhảy múa, đàn địch... âm thanh vi diệu, đánh trống.

– Giao du bạn xấu có sáu lỗi: Tìm cách lừa dối, ưa chỗ thầm kín, dụ dỗ người khác, mưu đồ chiếm đoạt tài sản, xoay tài lợi về mình, ưa phô bày lỗi người.

– Lười biếng có sáu lỗi: Khi giàu, khi nghèo, lúc quá lạnh, lúc quá nóng, lúc quá sớm, lúc quá tối đều không chịu siêng năng làm việc.

“Phật bảo Thiện Sanh:

– Có bốn hạng người không nên xem là bạn dầu tự cho là bạn là: Hạng úy phục, mỹ ngôn, kính thuận, ác hữu.

+ Hạng úy phục thường hay làm bốn việc: Cho trước đoạt lại sau, cho ít mong trả nhiều, vì sợ gượng làm thân, vì lợi gượng làm thân.

+ Hạng mỹ ngôn thường hay làm bốn việc: Lành dữ đều chiều theo, gặp hoạn nạn thì xa lánh, ngăn cản những điều hay, thấy gặp nguy tìm cách đun đẩy.

+ Hạng kính thuận thường hay làm bốn việc: Việc trước dối trá, việc sau dối trá, việc hiện tại dối trá, thấy một chút lỗi nhỏ đã vội trách phạt.

+ Bạn ác thường hay làm bốn việc: Chỉ làm bạn lúc uống rượu, lúc đánh bạc, lúc dâm dật, lúc ca vũ.

“Phật lại bảo Thiện Sanh:

– Có bốn hạng người thân là: Ngăn làm việc quấy, thương yêu, giúp đỡ, đồng sự.

+ Hạng ngăn việc quấy thường làm bốn việc:Thấy người làm ác thì hay ngăn cản, chỉ bày điều chánh trực, có lòng thương tưởng, chỉ đường sanh thiên.

+ Hạng thương yêu thường làm bốn việc: Mừng khi mình được lợi, lo khi mình gặp hại, ngợi khen đức tốt mình, thấy mình nói ác thì tìm cách ngăn cản.

+ Hạng giúp đỡ thường làm bốn việc: Che chở mình khỏi buông lung, che chở mình khỏi hao tài vì buông lung, che chở mình khỏi sợ hãi, khuyên bảo mình trong chỗ vắng người.

– Hạng đồng sự thường làm bốn việc: Không tiếc thân mạng với bạn, không tiếc của với bạn, cứu giúp bạn khỏi sợ hãi, khuyên bảo bạn lúc ở chỗ vắng người.

“Và Đức Phật đã dạy về ý nghĩa sáu phương như sau:

– Phương đông là cha mẹ.

– Phương nam là sư trưởng.

– Phương tây là thê thiếp.

– Phương bắc là bạn bè.

– Phương trên là bậc trưởng thượng, sa-môn, bà-la-môn.

– Phương dưới là tôi tớ.

“Làm con phải kính thuận cha mẹ với năm điều: Cung phụng hiếu dưỡng cha mẹ không để thiếu thốn, muốn làm gì trước phải thưa cho cha mẹ biết, không trái điều cha mẹ làm, không trái điều cha mẹ dạy, không cản việc làm lành của cha mẹ.

“Ngược lại, cha mẹ chăm sóc con cái với năm điều: Ngăn con không cho nghe và làm điều ác, chỉ dạy cho con những điều lành, thương yêu con thắm thiết, chọn nơi hôn phối tốt đẹp cho con, tùy thời cung cấp đồ cần dùng cho con.”

“Cung phụng sư trưởng có năm việc: Hầu hạ cung cấp điều cần, kính lễ cúng dường, tôn trọng quý mến, không trái nghịch điều thầy dạy bảo, nhớ kỹ không quên điều thầy dạy bảo.

“Thầy chăm sóc đệ tử có năm điều: Dạy dỗ có phương pháp, dạy những điều chưa biết, giải nghĩa rành rõ những điều trò hỏi, chỉ cho những bạn lành, chỉ hết những điều mình biết không lẫn tiếc.

“Chồng đối với vợ có năm điều: Lấy lễ đối đãi nhau, oai nghiêm không nghiệt, cho ăn mặc phải thời, cho trang sức phải thời, phó thác việc nhà.

“Vợ đối với chồng có năm điều: Dậy trước, ngồi sau, nói lời hòa nhã, kính nhường tùy thuận, đón trước ý chồng.

“Đối với bà con, bạn bè có năm điều: Chu cấp, nói lời hiền hòa, giúp đỡ mục đích, đồng lợi, không khi dối.

“Bà con bạn bè đối lại có năm điều: Che chở cho mình khỏi buông lung, che chở cho mình khỏi hao tài vì buông lung, che chở cho mình khỏi sự sợ hãi, khuyên răn lúc ở chỗ vắng người, thường ngợi khen nhau.

Chủ đối với tôi tớ có năm điều: Tùy khả năng mà sai sử, phải thời cho ăn uống, phải thời thưởng công lao, thuốc thang khi bệnh, cho có thời giờ nghỉ ngơi.

Tôi tớ phụng sự chủ có năm điều: Dậy sớm, làm việc chu đáo, không gian cắp, làm việc có lớp lang, bảo tồn danh giá chủ.

Đàn việt cung phụng hàng sa-môn, bà-la-môn với năm điều: Thân hành từ, khẩu hành từ, ý hành từ, đúng thời cúng thí, không đóng cửa khước từ.

Hàng sa-môn, bà-la-môn khuyên dạy đàn việc theo sáu điều: Ngăn ngừa chớ để làm ác, chỉ dạy điều lành, khuyên dạy với thiện tâm, cho nghe những điều chưa nghe, những gì đã được nghe làm cho hiểu rõ, chỉ dẫn con đường sanh thiên.

Nghe Phật thuyết giảng xong, Thiện Sanh phát khởi thiện tâm, hoan hỷ phụng hành và xin quy y Tam bảo, thọ trì năm giới.

(Kinh Trường A Hàm, tập I, Nxb Tôn Giáo, Hà Hội, 2005)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4984)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5214)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 7995)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6138)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5619)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4255)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9151)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5709)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7019)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5741)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]