- 1. Tình Cha
- 2. Tình Mẹ
- 3. Phương Đông Là Cha Mẹ
- 4. Vu Lan Nhớ Mẹ
- 5. Lời Phật Dạy Về Công Ơn Cha Mẹ Và Bổn Phận Làm Con
- 6. Thư Gởi Mẹ
- 7. Hồi Ức Về Ba Tôi
- 8. Má Tôi
- 9. Tình yêu của mẹ
- 10. Ngày Giỗ Má
- 11. Suối nguồn yêu thương
- 12. Thơ Dâng Cha Mẹ: Nhớ Mẹ
- 13. Chiều Biên Phòng Nhớ Mẹ
- 14. Thư Gửi Mẹ
- 15. Khóc Mẹ
- 16. Định Mệnh
- 17. Những Dòng Thơ Viết Muộn
- 18. Bông Hồng Cài Áo
- 19. Vần Thơ Kính Dâng Cha
- 20. Nhớ Song Thân
- 21. Mùa Thu Và Nỗi Nhớ
- 22. Nỗi Niềm
- 23. Chuyện Đêm Mơ
- 24. Tiếng Lòng
- 25. Giọt Thu
- 26. Tự Khúc
- 27. Bên Mộ Mẹ
- 28. Tứ Trọng Ân
- 29. Khúc Ầu Ơ
- 30. Chung Nỗi Niềm Riêng
- 31. Mẹ Mãi Trong Con
- 32. Mẹ Ơi!
SUỐI
NGUỒN YÊU THƯƠNG
Tâm Chơn
Tâm Chơn
PHƯƠNG ĐÔNG LÀ CHA MẸ
Kinh Thiện Sanh (trong kinh Trường A Hàm) hay Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (trong kinh Trường Bộ) là một bản kinh ngắn dạy về đời sống và các mối quan hệ đạo đức trong xã hội loài người. Nói rõ hơn, trong kinh đức Phật đã nêu lên một cách đầy đủ về lãnh vực tu thân và xử thế của người Phật tử tại gia. Trong đó có đề cập đến năm nguyên tắc đạo đức của con cái đối với cha mẹ và năm nguyên tắc đạo đức của các bậc cha mẹ đối với con cái.Sau đây là đoạn kinh Thiện Sanh bàn về chữ hiếu:
“Phật dạy: Cha mẹ là phương Đông… Phàm làm con phải kính thuận cha mẹ với năm điều: Cung phụng hiếu dưỡng cha mẹ không để thiếu thốn, muốn làm gì trước phải thưa cho cha mẹ biết, không trái điều cha mẹ làm, không trái điều cha mẹ dạy, không cản việc làm lành của cha mẹ. Ngược lại, cha mẹ chăm sóc con cái với năm điều: Ngăn con không cho nghe và làm điều ác, chỉ dạy cho con những điều lành, thương yêu con thắm thiết, chọn nơi hôn phối tốt đẹp cho con, tùy thời cung cấp đồ cần dùng cho con.”
Nội dung bản kinh thể hiện rõ nét quan điểm nhân sinh tích cực của đạo Phật theo cả hai truyền thống Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền.
Ở đây, chúng tôi xin gửi đến bạn đọc một phần lược trích từ bản kinh này.
“Tôi nghe như vầy.
“Một thời Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, thành La-duyệt-kỳ… Vào buổi sáng, Ngài đi vào thành khất thực.
“Bấy giờ, Phật trông thấy chàng thanh niên tên Thiện Sanh đang chắp tay kính lạy các phương đông, tây, nam, bắc, trên, dưới liền đến gần thăm hỏi nguyên do. Thiện Sanh thưa rằng chàng tuân theo lời căn dặn của cha trước lúc người chết.
“Sau đó, Thiện Sanh thỉnh cầu Phật giảng giải ý nghĩa lễ sáu phương.
“Phật dạy: ‘Nếu người nào biết tránh bốn trường hợp đưa đến nghiệp ác (sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ) là tham dục, sân hận, ngu si, sợ hãi; tránh được sáu điều phung phí tài sản là đam mê rượu chè, cờ bạc, phóng đãng, đam mê kỹ nhạc, giao du bạn xấu và lười biếng, thì cũng chính là lễ kính sáu phương. Người ấy, hiện đời được quả báo tốt đẹp, sau khi chết được sanh cõi lành, thiên giới.’
“Lại nữa, Phật dạy:
– Uống rượu có sáu điều lỗi: Hao tài, sanh bệnh, đấu tranh, tiếng xấu đồn khắp, bộc phát nóng giận, trí tuệ giảm dần.
– Cờ bạc có sáu điều tai hại: Tài sản hao hụt, thắng thì gây thù oán, bị kẻ trí chê, mọi người không kính nể tin cậy, bị xa lánh, sanh tâm trộm cắp.
– Phóng đãng có sáu lỗi: Không tự phòng hộ mình, không phòng hộ được tài sản và hàng hóa, không phòng hộ được vợ con, thường hay bị sợ hãi, bị những điều khốn khổ ràng buộc xác thân, ưa sinh điều dối trá.
– Mê kỹ nhạc có sáu lỗi: Luôn tìm đến chỗ ca hát, nhảy múa, đàn địch... âm thanh vi diệu, đánh trống.
– Giao du bạn xấu có sáu lỗi: Tìm cách lừa dối, ưa chỗ thầm kín, dụ dỗ người khác, mưu đồ chiếm đoạt tài sản, xoay tài lợi về mình, ưa phô bày lỗi người.
– Lười biếng có sáu lỗi: Khi giàu, khi nghèo, lúc quá lạnh, lúc quá nóng, lúc quá sớm, lúc quá tối đều không chịu siêng năng làm việc.
“Phật bảo Thiện Sanh:
– Có bốn hạng người không nên xem là bạn dầu tự cho là bạn là: Hạng úy phục, mỹ ngôn, kính thuận, ác hữu.
+ Hạng úy phục thường hay làm bốn việc: Cho trước đoạt lại sau, cho ít mong trả nhiều, vì sợ gượng làm thân, vì lợi gượng làm thân.
+ Hạng mỹ ngôn thường hay làm bốn việc: Lành dữ đều chiều theo, gặp hoạn nạn thì xa lánh, ngăn cản những điều hay, thấy gặp nguy tìm cách đun đẩy.
+ Hạng kính thuận thường hay làm bốn việc: Việc trước dối trá, việc sau dối trá, việc hiện tại dối trá, thấy một chút lỗi nhỏ đã vội trách phạt.
+ Bạn ác thường hay làm bốn việc: Chỉ làm bạn lúc uống rượu, lúc đánh bạc, lúc dâm dật, lúc ca vũ.
“Phật lại bảo Thiện Sanh:
– Có bốn hạng người thân là: Ngăn làm việc quấy, thương yêu, giúp đỡ, đồng sự.
+ Hạng ngăn việc quấy thường làm bốn việc:Thấy người làm ác thì hay ngăn cản, chỉ bày điều chánh trực, có lòng thương tưởng, chỉ đường sanh thiên.
+ Hạng thương yêu thường làm bốn việc: Mừng khi mình được lợi, lo khi mình gặp hại, ngợi khen đức tốt mình, thấy mình nói ác thì tìm cách ngăn cản.
+ Hạng giúp đỡ thường làm bốn việc: Che chở mình khỏi buông lung, che chở mình khỏi hao tài vì buông lung, che chở mình khỏi sợ hãi, khuyên bảo mình trong chỗ vắng người.
– Hạng đồng sự thường làm bốn việc: Không tiếc thân mạng với bạn, không tiếc của với bạn, cứu giúp bạn khỏi sợ hãi, khuyên bảo bạn lúc ở chỗ vắng người.
“Và Đức Phật đã dạy về ý nghĩa sáu phương như sau:
– Phương đông là cha mẹ.
– Phương nam là sư trưởng.
– Phương tây là thê thiếp.
– Phương bắc là bạn bè.
– Phương trên là bậc trưởng thượng, sa-môn, bà-la-môn.
– Phương dưới là tôi tớ.
“Làm con phải kính thuận cha mẹ với năm điều: Cung phụng hiếu dưỡng cha mẹ không để thiếu thốn, muốn làm gì trước phải thưa cho cha mẹ biết, không trái điều cha mẹ làm, không trái điều cha mẹ dạy, không cản việc làm lành của cha mẹ.
“Ngược lại, cha mẹ chăm sóc con cái với năm điều: Ngăn con không cho nghe và làm điều ác, chỉ dạy cho con những điều lành, thương yêu con thắm thiết, chọn nơi hôn phối tốt đẹp cho con, tùy thời cung cấp đồ cần dùng cho con.”
“Cung phụng sư trưởng có năm việc: Hầu hạ cung cấp điều cần, kính lễ cúng dường, tôn trọng quý mến, không trái nghịch điều thầy dạy bảo, nhớ kỹ không quên điều thầy dạy bảo.
“Thầy chăm sóc đệ tử có năm điều: Dạy dỗ có phương pháp, dạy những điều chưa biết, giải nghĩa rành rõ những điều trò hỏi, chỉ cho những bạn lành, chỉ hết những điều mình biết không lẫn tiếc.
“Chồng đối với vợ có năm điều: Lấy lễ đối đãi nhau, oai nghiêm không nghiệt, cho ăn mặc phải thời, cho trang sức phải thời, phó thác việc nhà.
“Vợ đối với chồng có năm điều: Dậy trước, ngồi sau, nói lời hòa nhã, kính nhường tùy thuận, đón trước ý chồng.
“Đối với bà con, bạn bè có năm điều: Chu cấp, nói lời hiền hòa, giúp đỡ mục đích, đồng lợi, không khi dối.
“Bà con bạn bè đối lại có năm điều: Che chở cho mình khỏi buông lung, che chở cho mình khỏi hao tài vì buông lung, che chở cho mình khỏi sự sợ hãi, khuyên răn lúc ở chỗ vắng người, thường ngợi khen nhau.
Chủ đối với tôi tớ có năm điều: Tùy khả năng mà sai sử, phải thời cho ăn uống, phải thời thưởng công lao, thuốc thang khi bệnh, cho có thời giờ nghỉ ngơi.
Tôi tớ phụng sự chủ có năm điều: Dậy sớm, làm việc chu đáo, không gian cắp, làm việc có lớp lang, bảo tồn danh giá chủ.
Đàn việt cung phụng hàng sa-môn, bà-la-môn với năm điều: Thân hành từ, khẩu hành từ, ý hành từ, đúng thời cúng thí, không đóng cửa khước từ.
Hàng sa-môn, bà-la-môn khuyên dạy đàn việc theo sáu điều: Ngăn ngừa chớ để làm ác, chỉ dạy điều lành, khuyên dạy với thiện tâm, cho nghe những điều chưa nghe, những gì đã được nghe làm cho hiểu rõ, chỉ dẫn con đường sanh thiên.
Nghe Phật thuyết giảng xong, Thiện Sanh phát khởi thiện tâm, hoan hỷ phụng hành và xin quy y Tam bảo, thọ trì năm giới.
(Kinh Trường A Hàm, tập I, Nxb Tôn Giáo, Hà Hội, 2005)
Gửi ý kiến của bạn