Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Tựa

08/12/201016:38(Xem: 9563)
Lời Tựa

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

LỜI TỰA

Lòng từ bi trong Phậtgiáo được cắt nghĩa là lòng mong ước sao cho tất cả mọi người đều vượt qua mọiđau khổ và bất hạnh. Chẳng may, tất cả chúng ta khó có the åthoát ra khỏi thếgiới của sự đau khổ đó. Chúng ta không thể tự trách mình được, không có chiếcđũa thần nào để biến đau khổ thành hạnh phúc. Chúng ta chỉ có thể rèn luyện tâmhồn mình ngày một nhân đức hơn và từ đó ta giúp mọi người làm được như vậy .

Tháng 8 năm 1999, ĐứcGiáo hoàng Dalai Lama (His Holiness the Dalai Lama) được Chính quyền Tây Tạngvà Tổ chức Gere (The Tibet Center and The Gere Foundation) mời đến New York đểtrao đổi.

Cuốn sách này được tríchdẫn từ những cuộc trao đổi đó. Trong những trang sau, Đức Giáo hoàng Dalai Lamasẽ chỉ cho chúng ta biết cách làm sao đểû rộng mở trái tim của chúng ta và pháttriển lòng từ bi bền vững và chân thật với mọi người. Toàn bộ cuộc đời của ĐứcGiáo hoàng là một bằng chứng về sức mạnh của sự rộng mở trái tim.

Đức Giáo hoàng đã làmviệc tích cực nhằm bảo tồn mọi di tích về nền văn hóa Tây Tạng. Đặc biệt, ôngnổ lực vì truyền thống tôn giáo của người Tây Tạng. Đối với người Tây Tạng, tôngiáo và văn hoá là hai điều không thể tách rời. Ông vẫn tiếp tục nghiên cứu,suy niệm và thiền định, ông không hề mệt mỏi trong việc truyền bá Phật giáo chomọi người trên toàn thế giới. Ông cống hiến mọi nổ lực của mình cho việc táilập , các tu viện, nhà dòng, các buổi giãng dạy truyền thống và tất cả những gìphục vụ cho việc bảo tồn những hiểu biết về người sáng lập ra Phật giáoShakyamuni Buddha.

Khi còn ở New York,Dalai Lama đã giảng giải ba ngày ở giảng đường Beacon (Beacon theatre). Chủ đềcủa những cuộc trao đổi này tập trung vào những phương pháp của nhà Phật, làmsao để loài người đạt được sự giác ngộ hoàn toàn. Ông đã trình bày qua hai nộidung: cuốn " những giai đọan thiền định" của tác giả là một thạc sĩngười Ấn Độ, Kamalashila, vào thế kỷ thứ VIII và cuốn "37 bài luyện tậpcủa những vị Bồ Tát" (The thirty- seven pratices of bodhisattvas) của tácgiả là một chuyên gia người Tây Tạng Togmay Sangpo, vào thế kỹ thứ XIV.

Cuốn sách củaKamalashila chỉ dẫn rõ ràng và vắn tắt những gì được gọi là giai đoạn "baola"(vast) và "sâu sắc"(profound) của phương pháp thiền định điđến sự giác ngộ tối cao. Mặc dù cuốn sách không được quan tâm nhiều ở Tây Tạng,nhưng nó vẫn có một giá trị rất lớn và Đức Giáo hòang vẫn luôn cố gắng truyềnbá cuốn sách đó trên tòan thế giới.

Cuốn sách thứ hai, cuốn"37 bài luyện tập của những vị Bồ Tát" là sự mô tả vắn tắt rỏ ràng vềphương pháp rèn luyện lối sống một cuộc đời vì mọi người. Tác giã cuốn sách đó,Togmay Sangpo, khuyên chúng ta nên nhận thức được rằng cuộc sống và lòng tincủa chúng ta dựa trên nền tảng là đồng loại. Togmay Sangpo sống một cuộc đờikhắc khổ của môït nhà tu, ông không bao giờ vị kỷ và luôn hy sinh bản thân vìmọi người xung quanh qua việc ban bố lòng từ bi của mình.

Qua những buổi nóichuyện này, dịch giả Geshe Thubten Jinpa đã diễn tả một cách khâm phục sự tinhtế của môn triết học Phật giáo được giảng giải bởi Đức Giáo hoàng và đồng thờitruyền tải lòng yêu thương luôn hiện hữu trong từng bài giãng của Đức Giáohoàng.

Mong rằng cuốn sách nàysẽ giúp cho những ai đó đọc nó sẽ tìm được niềm hạnh phúc và cũng mong rằngniềm hạnh phúc đó sẽ lan tỏa đến tất cả mọi người để trái tim của mọi ngườingày một rộng mở.

NICHOLAS VREELAND

Source: thuvienhoasen

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/02/2013(Xem: 5524)
Cách đây gần 30 năm, ông Huang Funeng bị mù sau khi mắc căn bệnh thoái hóa mắt. Kể từ đó, vợ ông, bà Wei Guiyi, trở thành đôi mắt của chồng. Hình ảnh người vợ còng dùng gậy tre dắt chồng mù không còn xa lạ với người dân ở tỉnh Quảng Tây.
07/02/2013(Xem: 12754)
Lịch Trình Hướng Dẫn Tu Học của Phái Đoàn Hoằng Pháp HT Thích Như Ðiển tại Âu Châu từ ngày 27-3-2013 đến 21-05-2013
06/02/2013(Xem: 4823)
Hôm nay, Tết Nguyên Đán năm Kỷ Tỵ, tấtcả quí Phật tử gần xa đều về chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới. Nhân đây chúng tôi cũng nói chuyện và chúc Tết quí vị luôn. Năm Tỵ là năm con rắn, tôi cũng tùy tục mà nói chuyện đạo lý về con rắn.
04/02/2013(Xem: 7868)
Trước khi nhập điệt, 2500 năm trước, Đức Phật đã giảng pháp lần cuối. Bài pháp thoại này đã đưọc ghi lại trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh -Maha Parinibbana Sutta -Great Passing Discourse) và đã được lưu giữ trong Tam Tạng Kinh điển Pali, những thánh điển của Phật giáo. Trong suốt 45 năm hoằng pháp, Đức Phật đã chỉ dẫn cho chúng sanh bao giáo lý để đến được con đường giải thoát. Ở giai đoạn cuối đời, Đức Phật muốn nhấn mạnh với các đệ tử của Ngài là cần đem những lời giáo huấn đó áp dụng vào cuộc sống.
02/02/2013(Xem: 5729)
You may be surprised to hear that Most Venerable Thich Quang Do has made it known to President Obama and his Administration that Vietnam needs more than ever the service of VOA/ Vietnamese service. He is the supreme Buddhist Leader in Vietnam under House Arrest.
01/02/2013(Xem: 6283)
Đức Phật không cô lập, xa lánh vua A Xà Thế, mà là mở cơ hội cho vua đến với Đức Phật. Phật giáo cố sự đại toàn chép lời Đức Phật đón vua A Xà Thế: “Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu”. Đốivới trường hợp vương triều A Xà Thế, với một vị vua tàn nhẫn, độc đoán,hiếu chiến, Đức Phật đã tạo môi trường hóa độ như thế. Trường hợp vua AXà Thế là câu trả lời chung cho câu hỏi về mối quan hệ giữa chính quyềnvới Phật giáo trong mọi thời đại. Dù là chính quyền như thế nào, đối với Phật giáo, đó vẫn là mối quan hệ mởcửa, hóa độ, mối quan hệ cho những gì tốt đẹp nhất nẩy mầm, sinh sôi. Bài viết về trường hợp vua A Xà Thế trong quan hệ với Đức Phật và tăng đoànchắc rằng sẽ định hình những nét chính trong bức tranh quan hệ Phật giáo và chính quyền mà chúng ta đang thảo luận.
27/01/2013(Xem: 9597)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần Tài – Thổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
21/01/2013(Xem: 6520)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người. Vả lại thật cũng không tốt nếu chạy theo một tín ngưỡng nào đó rồi sau này lại từ bỏ. Ngày nay, nhiều người rất quan tâm đến đời sống tinh thần mà đặc biệt nhất là Phật giáo, nhưng thường thì họ không suy xét cẩn thận để ý thức mình đang dấn thân vào một lãnh vực tinh thần có những đặc tính như thế nào.
18/01/2013(Xem: 5745)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thực ra người nghèo có nỗi khổ của người nghèo, mà người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn được giàu nên họ khổ. Người giàu sợ bấy nhiêu tài sản chưa đủ làm người khác nể phục, sợ bị phá sản, sợ người khác lợi dụng hay hãm hại mình nên khổ. So ra, cái khổ của người giàu còn
18/01/2013(Xem: 6577)
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan niệm về tính Không – một nội dung quan trọng của kinh Kim Cương. Tính Không (Sùnyatà) là một khái niệm khá trừu tượng: vừa thừa nhận có sự hiện hữu, sự “phồng lên” (ở hình thức bên ngoài) của một thực thể, vừa chỉ ra tính trống rỗng (ở bên trong) của thực thể. Vì vậy, tính Không không phải là khái niệm chỉ tình trạng rỗng, không có gì, mà có nghĩa mọi hiện hữu đều không có “tự ngã”, không có một thực thể cố định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567