Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Phải có con mắt trạch pháp khi xem kinh

17/11/201017:06(Xem: 8698)
3. Phải có con mắt trạch pháp khi xem kinh


PHẢICÓ CON MẮT TRẠCH PHÁP

KHIXEM KINH
Khi dịch xong kinhTrường A-hàm năm 1962 tôi cảm thấy có một vài thắc mắctuy thông thường nhưng sẽ không tránh khỏi xuất hiện mộtcách mau lẹ đến ít nhiều quý vị đọc kinh này. Ðể giảithích phần nào những thắc mắc đó hầu tránh khỏi cái nạnvì nghẹn bỏ ăn, ở đây xin nêu vài ý kiến theo trườnghợp này:

1. Thuyếtpháp độ sanh là bảnhoài của Phật, vậy tại sao khi Thành Ðạo rồi Ngài lạikhông muốn thuyết pháp, đợi đến khi Phạm vương thưa thỉnh,Ngài mới thuyết?

- Xin thưa: Như kinh đã nói đến,không phải Phật nhất định không muốn thuyết pháp, songNgài còn ngần ngại giữa một bên là giáo lý giác ngộ quácao siêu, một bên căn tính chúng sanh quá thấp kém, sợ đemgiáo pháp ấy nói cho chúng sanh ấy có hại hơn có lợi. Tronglúc Phật đang quán xét phải thuyết pháp cách nào mới đưađến nhiều lợi ích, thì Phạm vương đến thưa thỉnh. Nhưvậy việc thưa thỉnh này chỉ đáng xem là một việc làmđúng lúc chớ không phải một quyết định tối hậu, mởđầu cuộc thuyết pháp của Phật. Vả lại, thời bấy giờdân Ấn Ðộ tin thờ Phạm thiên vương là chúa tể. Nay thấyPhạm thiên vương thỉnh Phật thuyết pháp như vậy thì họsẽ tôn kính Phật mà lắng tai nghe, trừ bỏ lòng tự tônvào giáo pháp của Bà-la-môn xưa nay. (Muốn hiểu rộng hơnxin xem Luận Ðại Trí Ðộ quyển 7).

2. A Nan không thỉnh Phật ở đờilâu thêm vì tâm trí bị Ma vương ám. Nhưng sau đó Ngài nhậnlời Ma vương nhập Niết-bàn, như thế phải chăng Phật thiênvị Ma vương?

- Xin thưa: Phàm ở đời việc gìđến nó phải đến. Khi cơ duyên hóa độ đã mãn tất nhiênPhật vào Niết-bàn, dù khi đó có hay không có Ma vương thưathỉnh. Trái lại, khi cơ duyên hóa độ chưa mãn, lúc Ngàiở bên sông Ni-liên-thuyền, lúc Ngài vừa Thành Ðạo, dù Mavương có đến thỉnh Phật vẫn không vào Niết-bàn. Vậyviệc Phật nói với Ma vương sau ba tháng sẽ vào Niết-bànchỉ là một dịp Phật thổ lộ ý định của mình mà thôi.

3. Phật là bậc tự tại tựchủ, sao Ngài không duy trì xác thân ở đời mãi mãi đểlàm lợi ích cho chúng sanh? Nếu Phật còn phải chịu sự sốngchết như mọi người, thì sao gọi Phật là tự tại tự chủ?

- Xin thưa: Chân lý muôn đời củavũ trụ là hễ có sinh thì có diệt, có hiệp thì có ly, khôngmột ai có thể làm cho khác đi được. Nhưng chúng sanh vìvô minh thường có tham vọng đi ngược lại chân lý nên phảiđau khổ đời đời. Trái lại chư Phật Bồ -tát giác ngộ,thể nhập chân lý nên thường được tự tại như chân lý,một sự tự tại siêu tuyệt: Ở nơi sinh mà bất sinh, ởnơi diệt mà bất diệt; bất sinh bất diệt tức giải thoáttự tại ngoài vòng chi phối của bất cứ điều gì, dù làsinh là tử. Cho nên cùng một hình thức sinh tử, ta thấy vềxác thân mà ở nơi chúng sanh thì là luân hồi đau khổ, ởnơi Phật thì lại tự tại giải thoát.

Còn sự lợi sự hại theo Phậtthì chúng sanh lắm lúc không đồng nhau. Cùng một chuyện chúngsanh thấy lợi, Phật thấy không lợi, chúng sanh thấy hại,Phật thấy không hại. Do đó, dù Phật diệt độ mà Ngàivẫn thấy chúng sanh còn được nhờ giáo pháp Phật để lại,để nổ lực tu hành mà không sanh tâm ỷ lại vào sự tếđộ của Phật. Mỗi người phải lo tự giác ngộ chứ khôngai giác ngộ thế cho ai được. Hễ ai giác ngộ được, ngườiđó hết đau khổ, dù Phật còn ở đời, mà chúng sanh khôngchịu tự lo giác ngộ theo phương pháp Phật chỉ dạy cũngkhông ích gì.

Một câu chuyện tương tự dướiđây, tuy đơn giản nhưng có thể làm một tiêu chuẩn cho tasuy nghiệm đến đường lối cứu đời của Phật khác xathường tình nghĩ tưởng: Lúc Phật còn tại thế, có mộtngười đàn bà không may phải làm dâu trong một gia đình ácđộc, bà ta bị hất hủi, bạc đãi đủ điều, nên chỉcòn biết đặt hy vọng vào đứa con độc nhất của mình.Nhưng cũng rủi luôn cho bà, đứa con ấy vừa lên ba thì mệnhyểu. Bà đau khổ điên cuồng ôm thây con đến mấy vị bácsĩ, nhờ cứu chữa. Bác sĩ, lương y nào cũng lắc đầu bótay. Cuối cùng có người vẽ cho bà tìm đến đức Thế Tôn,may ra Ngài có thể cứu được con bà. Một tia hy vọng cuốicùng lại vụt sáng giữa lúc tâm thần đang bối rối đaukhổ, bà ôm xác con chạy gấp đến chỗ Phật, sau khi váichào, bà liền cầu xin Phật cho đứa con bà sống lại, Phậtdạy: Ðược, Bà hãy đi kiếm cho Ta một nắm hạt cải ởnhà nào từ xưa nay không có người chết, đem về đây Tasẽ cứu cho". Bà mừng rỡ lật đật chạy đi kiếm. Khi bàđến nhà thứ nhất, được người đem cho nắm hạt cải.Bà liền hỏi chủ nhà: "Nhà này xưa nay có ai chết không?"Chủ nhà trả lời: "đã có mấy người chết". Bà ta nói đứcThế Tôn dặn kiếm thứ hạt cải ở nhà nào xưa nay khôngcó người chết, nên bà ta đem trả lại nắm hạt cải. Bàta cũng hỏi và cũng không nhận như nhà trước. Cứ như thếbà ta đi từ nhà nọ đến nhà kia khắp vùng mà vẫn khôngkiếm ra một nắm hạt cải đúng như lời Phật dặn. Bỗngnhiên một giây phút tỉnh ngộ, lý vô thường bật sáng trongtâm bà, phá tan bao điều sầu khổ, u ám, bà lặng lẽ đemcon đi chôn rồi trở lại tinh xá bạch Thế Tôn: "Việc Ngàidạy con đã làm xong". Rồi bà đảnh lễ Phật xin quy y làmđệ tử.

Khi đọc chuyện này, không khéolại có người đặt lời phê phán: "Thế Phật có hơn gìmấy ông bác sĩ, lương y? Phật còn không bằng các đạo sĩ,giáo chủ khác dùng phép lạ cứu người chết rồi sống lại?Tình thương của Phật như thế tỏ ra một tình thương quálạt lẽo đến phũ phàng, một tình thương không thực tế!"Nhưng không, nếu cứ ôn tồn suy nghĩ chắc người ta sẽkhông phê phán một cách quá nông nổi và sai lầm đối vớilòng từ bi quá thâm thúy và thiết thực như trên của Phật.Ðối với Phật, Ngài đã thấy rõ, sở dĩ chúng sanh đau khổchỉ vì không giác ngộ được chân lý thực tại vô thường,lại muốn bám chặt vào những mảnh vô thường và nhận chắcđó là ta và của ta, vì vậy tình thương của Ngài là cốtlàm thế nào phá trừ vô minh đưa chúng sanh đến nơi giácngộ tức hết đau khổ, nếu không như vậy, dù có làm cáchnào, cũng chỉ là cách cứu chữa tạm thời, đôi khi còn vìnó gây thêm đậm nét đau khổ là khác. Ví dụ như ông thầythuốc không chịu tìm chữa từ bịnh căn, chỉ nghe con bịnhnói đau mắt, đau đầu bừa, không tìm nguyên nhân thì khôngbao giờ hết bịnh, vì bịnh căn là mầm mống chưa trừ. Nhưvậy đến đây, ta hiểu được rằng tại sao Phật không dùngphép lạ cứu sống đứa con người đàn bà kia. Chúng ta cũngbiết rõ rằng dù Phật có cứu sống đứa nhỏ bằng phéplạ đi nữa rồi một ngày kia nó cũng vẫn già, vẫn bịnh,vẫn chết và người đàn bà mẹ nó, cũng vẫn đau khổ nhưtừ bao giờ không hơn không kém, nếu bà không một lần tỉnhngộ như trong khi đi xin hạt cải: chết sống không phải làkhổ mà khổ vì không giác ngộ lẽ chết sống.

4. Chúng sanh đau khổ nhưng kémhèn không tự cứu lấy mình được mới chạy đến Phậtcầu cứu. Thay vì phải soi sáng, cứu độ cho họ, Phật lạidạy: "Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi". Như thếnghĩa là sao? Nếu chúng sanh tự thắp đuốc lên mà đi đượcthì phỏng có lợi ích gì mà họ phải chạy đến Phật?

- Xin thưa: Phật dạy mỗi ngườiphải tự giác ngộ lấy mình chớ không ai giác ngộ thế chođược, đó là lời dạy chí lý hiển nhiên đúng thật khôngthể chối cãi được, và câu "Các ngươi hãy tự thắp đuốclên mà đi" đã nằm trong ý nghĩa tự giác ngộ đó. Tuy nhiên,nếu suốt một đời giáo hóa của Phật, thỉ chung Ngài chỉdạy có một câu ấy bất cứ đối với ai và bất cứ lúcnào, thì cũng đáng cho ta sự thắc mắc trên, bởi nếu nhưvậy, chúng ta sẽ không hiểu gì là cái đuốc. Tại sao phảitự thắp, làm thế nào để thắp và đi về đâu. Nhưng đằngnày khác hẳn, sau giáo pháp Phật đã dạy, giáo pháp đó khôngích lợi gì cả nếu chúng sanh không chịu khó học hỏi kinhnghiệm thực hành, nương giáo pháp để tự tạo lấy sựgiác ngộ chính trong lòng mình. Phật vì thương chúng sanh chonên Ngài lại phải nhắc nhở chúng sanh lo thực hành vớilời dạy trên.

Giáo pháp như ngón tay chỉ, chânlý ví như mặt trăng, Phật truyền dạy giáo pháp khác nàonhư Phật đã đưa tay chỉ mặt trăng (đây là Phật khai hóacứu độ cho chúng sanh), người muốn thấy mặt trăng, tấtphải định thần mở mắt nhìn theo hướng tay chỉ, khôngphải chờ ai nhìn thế mà cho thấy được. Nếu Phật có nhìnthấy hay người khác có nhìn thấy, cũng chỉ là Phật thấy,mấy người kia thấy, chớ không phải mình thấy. Giáo pháplại có thể ví như những điều kiện bên ngoài để tạora hạnh phúc chân thật bên trong; khi một người có đủ cácđiều kiện ấy mà vẫn thấy mình chưa đủ hạnh phúc thìhọ phải lo tự tạo lấy hạnh phúc cho họ, chớ không aibên ngoài xen vào hay mang lại một hạnh phúc chân thật tronglòng họ được.

Ðể hiểu rõ hơn, ta cần xác nhậnthời gian tính lời dạy trên trong quá trình thuyết giáo củaPhật. Theo như trong kinh này thì câu "Các ngươi hãy tự thắpđuốc lên mà đi" đã được Phật dạy vào lúc sắp nhậpNiết-bàn và lúc nhiều giáo pháp đã được Phật nói ra.Như thế có theo Phật ta mới hiểu rõ đường lối tu hành,mới thoát khỏi các ý nghĩ ỷ lại sai lầm rằng ta có thểnhờ người khác đem lại giác ngộ và hạnh phúc chân thậtcho ta, và mới hiểu tại sao phải tự thắp đuốc lên màđi và thắp bằng cách nào để khỏi bị ở mãi trong chốntối tăm đau khổ.

5. Ðạo Phật chủ trương lýtrí, chú trọng thực tiễn, tại sao trong kinh còn có nhữngchỗ nói đến các vị thần, như thiên thần, lâm thần, thọthần v.v... Như thế Phật giáo cũng tin có quỷ thần, mơ hồ?Phật giáo cũng là một đa thần giáo?

- Xin thưa: Phật giáo không hề lấyviệc tin quỷ thần, cầu khấn, thầm làm phương châm giảikhổ, nhưng Phật giáo quan niệm giữa vũ trụ có vô lượngthế giới và vô số chúng sanh xuất hiện dưới vô số hìnhthức sai khác, lớn có, bé có, ở hư không có, ở dưới biểncó, hữu hình có, vô hình có, tùy theo căn thức và nghiệpcảm. Mỗi chúng sanh cũng chỉ là mỗi chúng sanh, không chúngsanh nào có thể sáng tạo và cai quản chúng sanh nào, ngoạitrừ tánh cách tương quan hổ thành theo luật nhân duyên nhânquả. Do đó, Phật không bao giờ khuyên dạy người ta cầuxin phúc họa nơi quỷ thần, mà dạy người ta lo cầu xin họaphúc ngay nơi mình. Khác với đa số người thế gian và đathần giáo xem quỷ thần như những vị sáng tạo và có quyềnphép ban phước giáng họa và người ta cần đến đó cầuxin hoặc sợ sệt kính lễ, trong khi Phật giáo dù nói đếnthần này thần kia chỉ có nghĩa tại chỗ kia chỗ nọ màthôi, có với không có nó không là việc bận rộn đến tinhthần của những Phật tử chân chánh.

6. Người ta nói "Quốc gia hưngvong thất phu hữu trách", một thường dân còn có bổn phậnđối với quốc gia xứ sở, huống những người cầm quyềntrị vì, thế nhưng trong kinh có đoạn kể chuyện vua tôi nướcnọ đều xuất gia cả. Xuất gia như thế có hại cho quốcgia không? Có thụ động, trốn trách nhiệm không?

- Xin thưa: giá trị của sự xuấtgia ở chỗ khác đã có nói nhiều, ở đây xin tóm tắt rằngsự xuất gia chân chính bao gồm một ý nghĩa từ bỏ dụcvọng, tham lam, ngã chấp, để khuôn mình trong lối sống đạođức với chí hướng cầu chân thiện mỹ và ban phát chânthiện mỹ. Xuất gia như thế đâu phải là một hành vi thụđộng, trốn đời, hại đời? Và đâu dễ có mấy ngườixuất gia, khiến đến nỗi quốc gia phải suy yếu vì họ?Vả chăng việc nước là việc chung, không người này cònngười khác, một số rất nhỏ người xuất gia có thấm vàođâu với đại đa số dân chúng. Một điều mà thiết tưởngai cũng thấy rõ, nước mạnh không nhất thiết phải dân đôngnhưng cốt phải muôn dân nhất trí, và muốn cho muôn dân nhấttrí là phải có đạo đức, hy sinh, công chính. Mọi ngườidân trong khi cố công kiến thiết, họ cũng phải cố côngxây dựng ở họ, ở người khác một sức mạnh đạo đức,biết hy sinh, không ích kỷ, không cố vị tham quyền mới duytrì được nền an lạc chung. Như thế suy đến chuyện xuấtgia của vua tôi nước nọ, thay vì nói đó là yếm thế, trốntrách nhiệm, ta hãy nói đó là một cử chỉ cao thượng hiếmcó, đã nêu một gương sáng không tham cố quyền lợi, khôngcố thủ địa vị là điều xưa nay thật khó tìm thấy ởtrong bao nhiêu người có địa vị trong tay. Tuy vậy, thậtra việc xuất gia như trên rất hiếm có trong lịch sử vàgiả sử có ta cũng thấy rõ đâu có làm hại cho quốc gia,xã hội bằng những con người bất nhân vô đạo, cố vịtham quyền kết tụ lại trong quốc gia hay thế giới, mà xưanay đâu đâu cũng có. Cứ xem nhân loại ngày nay ta cũng đủthấy là hiện đang đau khổ vì dục vọng hay những lời dạyly dục và sự xuất gia như trên?

Tóm lại, trong khi xem kinh, nên cócon mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phậtquyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lờinào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu, và suy nghiệmlối thuyết pháp tất đàn của Phật mới mong học đượcnhững chỗ đáng học, nắm được chỗ chính yếu của giáolý để khỏi kẹt vào những thắc mắc không trọng hệ nhưnglắm lúc làm trở ngại những giáo lý trọng hệ cần đượcchú tâm suy tầm tu niệm nhiều hơn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/08/2021(Xem: 6553)
Các câu trích dẫn giáo huấn của Đức Đạt-lai Lạt-ma dưới đây được ghi lại từ một tư liệu trên trang mạng tiếng Pháp Evolution-101 https://www.evolution-101.com/citations-du-dalai-Lama/. Các câu này được xếp theo các chủ đề: 1- Tình thương yêu 2- Tiền bạc 3- Hạnh phúc 4- Lòng tốt
18/08/2021(Xem: 9719)
LỜI MỞ ĐẦU Thông thường ở bất cứ quyển sách nào cũng có lời mở đầu của chính tác giả, hoặc lời giới thiệu của một người nào đó cho tác phẩm sắp được ra đời. Nay cũng nằm trong thông lệ ấy, tôi viết lời nói đầu cho quyển sách năm nay lấy tên là: "CHÙA VIÊN GIÁC", một quyển sách bằng tiếng Việt mà bao nhiêu người đã chờ đợi.
17/08/2021(Xem: 7469)
Thật là một điều kỳ diệu và lý thú khi được tin báo trên Viber là Tuyển Tập pháp Thoại vừa hoàn thành và đã sẵn sàng đến tay Phật Tử khi đến dự Lễ Vu Lan tại Tu Viện Quảng Đức (nếu không bị lockdown). Vì sao gọi là kỳ diệu? Chỉ sau khi tôi được học xong 10 duyên mà Đức Phật cho là quan trọng nhất theo thứ tự của 24 duyên, mà chúng ta ai cũng phải gặp trong thời gian còn làm người phàm, và nếu hiểu rõ tường tận thì mình có thể sẽ không bao giờ thốt lên câu “Học muôn ngàn chữ nghĩa nhưng không ai học được chữ Ngờ” của bộ Đại Phát Thú / Vi Diệu Pháp, do Giảng Sư Thích Sán Nhiên đã thuyết giảng qua 61 video, mỗi video kéo dài từ 3: 00 đến 3:50 giờ. Chính vì thế, nhờ đó tôi chợt nhận ra nhân duyên gì đã làm trưởng duyên và đẳng vô gián duyên, để tôi đến với Đại Gia Đình Quảng Đức Đạo tràng nói chung, và tiếp xúc liên hệ với TT Trụ trì Tu viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng và được cộng tác với Ngài trên trang website Phật Giáo, Trang Nhà Quảng Đức, để rồi hôm nay lại có duyên
17/08/2021(Xem: 5038)
Phần này bàn về cách dùng nên so với lên vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các âm này được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Ngoài ra, từ thời Việt Bồ La thì nước Việt đã mở rộng bờ cõi đến tận Cà Mau và khuếch đại các sự khác biệt trong ngôn ngữ như phương ngữ Nam bộ (tiếng Nam Kỳ) so với Bắc Bộ. Do đó các nhân tố địa-chính-trị đã đóng phần không nhỏ trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại, thí dụ như cách nói "nên mười tuổi", cùng với khuynh hướng "chuẩn hóa" tiếng Việt so với hiện tượng lẫn lộn n và l mà một số tác giả cho là ‘nói ngọng’ đều liên hệ phần nào đến chủ đề bài này.
16/08/2021(Xem: 7160)
Con người sinh ra từ xưa đến nay ai ai cũng phải trải qua 4 giai đoạn. Đó là: Sanh, Già, Bệnh và Chết. Tuy nhiên cũng có người chỉ sanh ra rồi chết liền, không trải qua giai đoạn già hay bịnh; hoặc có người chưa già đã chết vì bịnh hay tai nạn; cũng có lắm người phải sống đến 100 năm hay hơn thế nữa để thấy cuộc thế đổi thay, nhiều khi muốn chết mà chết cũng không được. Dẫu biết rằng sống hay chết là một việc tự nhiên của con người, của muôn vật và ngay cả những chúng sanh có đời sống cao hơn và lâu dài hơn chúng ta, như những vị được sanh ra ở cõi Sắc hay cõi Vô Sắc đi chăng nữa, rồi một ngày nào đó cũng phải chết, phải đi đầu thai. Họ chỉ khác chúng ta là ở cõi đó đời sống sung sướng hơn, có tuổi thọ dài lâu hơn. Vì khi làm người, họ đã biết tạo dựng nhiều phước báu, nên kiếp nầy họ mới được như vậy.
15/08/2021(Xem: 4923)
Cúng ma chay, giỗ người thân đã mất, giỗ ông bà tổ tiên, cúng cô hồn vào những ngày rằm, ngày lễ như lễ Vu Lan, Tết Nguyên Đán …vv cùng với đốt vàng mã là truyền thống ‘tâm linh’ lâu đời của người Việt Nam, là cách tưởng niệm, bày tỏ lòng biết ơn, hiếu đễ đối với người đã khuất, tổ tiên và thần linh. Ngày nay, việc cúng người chết, cúng ‘cô hồn’ và đốt vàng mã tràn lan trên tinh thần kiến chấp ‘dương sao âm vậy’, nên các loại vàng mã thay đổi đa dạng sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế nầy: ngoài áo giấy ra, vàng mã còn có cả xe hơi, nhà lầu, ipad, di động, đô la vv với ý niệm ‘thiện lành’ (nhưng tà kiến) là để người ‘âm’ sử dụng. Không những tập tục này phát triển biến tướng trong nhân gian mà còn ảnh hưởng không tốt đến môt số Phật tử tại gia, và ngay cả tại một số tự viện.
15/08/2021(Xem: 7351)
Là người hay là thú, sinh ra đời nếu bộ não bình thường thì tất cả đều có cái biết. Biết đói, biết no, biết khát, biết nóng, biết lạnh, biết thiếu, biết đủ v.v… Tâm trí loài vật, có nhiều loài khá khôn ngoan, nhưng khôn ngoan cách nào cũng không bằng con người. Khi còn nhỏ cái biết của con người rất hạn hẹp. Khi lớn lên cái biết dần mở rộng, nhờ học hỏi từ môi trường gia đình, học đường, xã hội. Tùy theo căn cơ mà có người thông minh học một biết mười, có người kém thông minh chậm hiểu. Nhưng dù cái biết của người thông minh hay cái biết của người kém thông minh thì đó cũng là cái biết cần thiết cho đời sống.
13/08/2021(Xem: 6374)
Công ơn cha mẹ tựa biển trời Làm sao báo hiếu hỡi người ơi? Nếu chưa báo hiếu đừng bất hiếu Bất hiếu làm ta khổ trọn đời.
13/08/2021(Xem: 8984)
Nam Mô Vu Lan Hội Thượng Phật Bồ Tát Phật Dạy Ân Đức Cha Mẹ - A-nan! Ân đức cha mẹ có 10 điều sau đây: MỘT là ân thai mang giữ gìn: Vì sự nghiệp lực nhân duyên, nên nay ky' thác thai mẹ. Lâu ngày khổ sở, chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội núi, đi đứng sợ gió mưa, quần áo không sửa soạn, trang điểm còn kể chi.
09/08/2021(Xem: 8145)
Các lời trích dẫn giáo lý của Đức Phật cùng các danh nhân khác thường thấy trên mạng, báo chí và tạp chí đủ loại tại các nước Tây phương. Dường như trong cuộc sống dồn dập tại các nơi này, một số người đôi khi cũng thích đọc một vài câu ngắn gọn nhưng sâu sắc, giúp mình suy nghĩ về xã hội, con người và sự sống nói chung.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]