Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Phải có con mắt trạch pháp khi xem kinh

17/11/201017:06(Xem: 8701)
3. Phải có con mắt trạch pháp khi xem kinh


PHẢICÓ CON MẮT TRẠCH PHÁP

KHIXEM KINH
Khi dịch xong kinhTrường A-hàm năm 1962 tôi cảm thấy có một vài thắc mắctuy thông thường nhưng sẽ không tránh khỏi xuất hiện mộtcách mau lẹ đến ít nhiều quý vị đọc kinh này. Ðể giảithích phần nào những thắc mắc đó hầu tránh khỏi cái nạnvì nghẹn bỏ ăn, ở đây xin nêu vài ý kiến theo trườnghợp này:

1. Thuyếtpháp độ sanh là bảnhoài của Phật, vậy tại sao khi Thành Ðạo rồi Ngài lạikhông muốn thuyết pháp, đợi đến khi Phạm vương thưa thỉnh,Ngài mới thuyết?

- Xin thưa: Như kinh đã nói đến,không phải Phật nhất định không muốn thuyết pháp, songNgài còn ngần ngại giữa một bên là giáo lý giác ngộ quácao siêu, một bên căn tính chúng sanh quá thấp kém, sợ đemgiáo pháp ấy nói cho chúng sanh ấy có hại hơn có lợi. Tronglúc Phật đang quán xét phải thuyết pháp cách nào mới đưađến nhiều lợi ích, thì Phạm vương đến thưa thỉnh. Nhưvậy việc thưa thỉnh này chỉ đáng xem là một việc làmđúng lúc chớ không phải một quyết định tối hậu, mởđầu cuộc thuyết pháp của Phật. Vả lại, thời bấy giờdân Ấn Ðộ tin thờ Phạm thiên vương là chúa tể. Nay thấyPhạm thiên vương thỉnh Phật thuyết pháp như vậy thì họsẽ tôn kính Phật mà lắng tai nghe, trừ bỏ lòng tự tônvào giáo pháp của Bà-la-môn xưa nay. (Muốn hiểu rộng hơnxin xem Luận Ðại Trí Ðộ quyển 7).

2. A Nan không thỉnh Phật ở đờilâu thêm vì tâm trí bị Ma vương ám. Nhưng sau đó Ngài nhậnlời Ma vương nhập Niết-bàn, như thế phải chăng Phật thiênvị Ma vương?

- Xin thưa: Phàm ở đời việc gìđến nó phải đến. Khi cơ duyên hóa độ đã mãn tất nhiênPhật vào Niết-bàn, dù khi đó có hay không có Ma vương thưathỉnh. Trái lại, khi cơ duyên hóa độ chưa mãn, lúc Ngàiở bên sông Ni-liên-thuyền, lúc Ngài vừa Thành Ðạo, dù Mavương có đến thỉnh Phật vẫn không vào Niết-bàn. Vậyviệc Phật nói với Ma vương sau ba tháng sẽ vào Niết-bànchỉ là một dịp Phật thổ lộ ý định của mình mà thôi.

3. Phật là bậc tự tại tựchủ, sao Ngài không duy trì xác thân ở đời mãi mãi đểlàm lợi ích cho chúng sanh? Nếu Phật còn phải chịu sự sốngchết như mọi người, thì sao gọi Phật là tự tại tự chủ?

- Xin thưa: Chân lý muôn đời củavũ trụ là hễ có sinh thì có diệt, có hiệp thì có ly, khôngmột ai có thể làm cho khác đi được. Nhưng chúng sanh vìvô minh thường có tham vọng đi ngược lại chân lý nên phảiđau khổ đời đời. Trái lại chư Phật Bồ -tát giác ngộ,thể nhập chân lý nên thường được tự tại như chân lý,một sự tự tại siêu tuyệt: Ở nơi sinh mà bất sinh, ởnơi diệt mà bất diệt; bất sinh bất diệt tức giải thoáttự tại ngoài vòng chi phối của bất cứ điều gì, dù làsinh là tử. Cho nên cùng một hình thức sinh tử, ta thấy vềxác thân mà ở nơi chúng sanh thì là luân hồi đau khổ, ởnơi Phật thì lại tự tại giải thoát.

Còn sự lợi sự hại theo Phậtthì chúng sanh lắm lúc không đồng nhau. Cùng một chuyện chúngsanh thấy lợi, Phật thấy không lợi, chúng sanh thấy hại,Phật thấy không hại. Do đó, dù Phật diệt độ mà Ngàivẫn thấy chúng sanh còn được nhờ giáo pháp Phật để lại,để nổ lực tu hành mà không sanh tâm ỷ lại vào sự tếđộ của Phật. Mỗi người phải lo tự giác ngộ chứ khôngai giác ngộ thế cho ai được. Hễ ai giác ngộ được, ngườiđó hết đau khổ, dù Phật còn ở đời, mà chúng sanh khôngchịu tự lo giác ngộ theo phương pháp Phật chỉ dạy cũngkhông ích gì.

Một câu chuyện tương tự dướiđây, tuy đơn giản nhưng có thể làm một tiêu chuẩn cho tasuy nghiệm đến đường lối cứu đời của Phật khác xathường tình nghĩ tưởng: Lúc Phật còn tại thế, có mộtngười đàn bà không may phải làm dâu trong một gia đình ácđộc, bà ta bị hất hủi, bạc đãi đủ điều, nên chỉcòn biết đặt hy vọng vào đứa con độc nhất của mình.Nhưng cũng rủi luôn cho bà, đứa con ấy vừa lên ba thì mệnhyểu. Bà đau khổ điên cuồng ôm thây con đến mấy vị bácsĩ, nhờ cứu chữa. Bác sĩ, lương y nào cũng lắc đầu bótay. Cuối cùng có người vẽ cho bà tìm đến đức Thế Tôn,may ra Ngài có thể cứu được con bà. Một tia hy vọng cuốicùng lại vụt sáng giữa lúc tâm thần đang bối rối đaukhổ, bà ôm xác con chạy gấp đến chỗ Phật, sau khi váichào, bà liền cầu xin Phật cho đứa con bà sống lại, Phậtdạy: Ðược, Bà hãy đi kiếm cho Ta một nắm hạt cải ởnhà nào từ xưa nay không có người chết, đem về đây Tasẽ cứu cho". Bà mừng rỡ lật đật chạy đi kiếm. Khi bàđến nhà thứ nhất, được người đem cho nắm hạt cải.Bà liền hỏi chủ nhà: "Nhà này xưa nay có ai chết không?"Chủ nhà trả lời: "đã có mấy người chết". Bà ta nói đứcThế Tôn dặn kiếm thứ hạt cải ở nhà nào xưa nay khôngcó người chết, nên bà ta đem trả lại nắm hạt cải. Bàta cũng hỏi và cũng không nhận như nhà trước. Cứ như thếbà ta đi từ nhà nọ đến nhà kia khắp vùng mà vẫn khôngkiếm ra một nắm hạt cải đúng như lời Phật dặn. Bỗngnhiên một giây phút tỉnh ngộ, lý vô thường bật sáng trongtâm bà, phá tan bao điều sầu khổ, u ám, bà lặng lẽ đemcon đi chôn rồi trở lại tinh xá bạch Thế Tôn: "Việc Ngàidạy con đã làm xong". Rồi bà đảnh lễ Phật xin quy y làmđệ tử.

Khi đọc chuyện này, không khéolại có người đặt lời phê phán: "Thế Phật có hơn gìmấy ông bác sĩ, lương y? Phật còn không bằng các đạo sĩ,giáo chủ khác dùng phép lạ cứu người chết rồi sống lại?Tình thương của Phật như thế tỏ ra một tình thương quálạt lẽo đến phũ phàng, một tình thương không thực tế!"Nhưng không, nếu cứ ôn tồn suy nghĩ chắc người ta sẽkhông phê phán một cách quá nông nổi và sai lầm đối vớilòng từ bi quá thâm thúy và thiết thực như trên của Phật.Ðối với Phật, Ngài đã thấy rõ, sở dĩ chúng sanh đau khổchỉ vì không giác ngộ được chân lý thực tại vô thường,lại muốn bám chặt vào những mảnh vô thường và nhận chắcđó là ta và của ta, vì vậy tình thương của Ngài là cốtlàm thế nào phá trừ vô minh đưa chúng sanh đến nơi giácngộ tức hết đau khổ, nếu không như vậy, dù có làm cáchnào, cũng chỉ là cách cứu chữa tạm thời, đôi khi còn vìnó gây thêm đậm nét đau khổ là khác. Ví dụ như ông thầythuốc không chịu tìm chữa từ bịnh căn, chỉ nghe con bịnhnói đau mắt, đau đầu bừa, không tìm nguyên nhân thì khôngbao giờ hết bịnh, vì bịnh căn là mầm mống chưa trừ. Nhưvậy đến đây, ta hiểu được rằng tại sao Phật không dùngphép lạ cứu sống đứa con người đàn bà kia. Chúng ta cũngbiết rõ rằng dù Phật có cứu sống đứa nhỏ bằng phéplạ đi nữa rồi một ngày kia nó cũng vẫn già, vẫn bịnh,vẫn chết và người đàn bà mẹ nó, cũng vẫn đau khổ nhưtừ bao giờ không hơn không kém, nếu bà không một lần tỉnhngộ như trong khi đi xin hạt cải: chết sống không phải làkhổ mà khổ vì không giác ngộ lẽ chết sống.

4. Chúng sanh đau khổ nhưng kémhèn không tự cứu lấy mình được mới chạy đến Phậtcầu cứu. Thay vì phải soi sáng, cứu độ cho họ, Phật lạidạy: "Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi". Như thếnghĩa là sao? Nếu chúng sanh tự thắp đuốc lên mà đi đượcthì phỏng có lợi ích gì mà họ phải chạy đến Phật?

- Xin thưa: Phật dạy mỗi ngườiphải tự giác ngộ lấy mình chớ không ai giác ngộ thế chođược, đó là lời dạy chí lý hiển nhiên đúng thật khôngthể chối cãi được, và câu "Các ngươi hãy tự thắp đuốclên mà đi" đã nằm trong ý nghĩa tự giác ngộ đó. Tuy nhiên,nếu suốt một đời giáo hóa của Phật, thỉ chung Ngài chỉdạy có một câu ấy bất cứ đối với ai và bất cứ lúcnào, thì cũng đáng cho ta sự thắc mắc trên, bởi nếu nhưvậy, chúng ta sẽ không hiểu gì là cái đuốc. Tại sao phảitự thắp, làm thế nào để thắp và đi về đâu. Nhưng đằngnày khác hẳn, sau giáo pháp Phật đã dạy, giáo pháp đó khôngích lợi gì cả nếu chúng sanh không chịu khó học hỏi kinhnghiệm thực hành, nương giáo pháp để tự tạo lấy sựgiác ngộ chính trong lòng mình. Phật vì thương chúng sanh chonên Ngài lại phải nhắc nhở chúng sanh lo thực hành vớilời dạy trên.

Giáo pháp như ngón tay chỉ, chânlý ví như mặt trăng, Phật truyền dạy giáo pháp khác nàonhư Phật đã đưa tay chỉ mặt trăng (đây là Phật khai hóacứu độ cho chúng sanh), người muốn thấy mặt trăng, tấtphải định thần mở mắt nhìn theo hướng tay chỉ, khôngphải chờ ai nhìn thế mà cho thấy được. Nếu Phật có nhìnthấy hay người khác có nhìn thấy, cũng chỉ là Phật thấy,mấy người kia thấy, chớ không phải mình thấy. Giáo pháplại có thể ví như những điều kiện bên ngoài để tạora hạnh phúc chân thật bên trong; khi một người có đủ cácđiều kiện ấy mà vẫn thấy mình chưa đủ hạnh phúc thìhọ phải lo tự tạo lấy hạnh phúc cho họ, chớ không aibên ngoài xen vào hay mang lại một hạnh phúc chân thật tronglòng họ được.

Ðể hiểu rõ hơn, ta cần xác nhậnthời gian tính lời dạy trên trong quá trình thuyết giáo củaPhật. Theo như trong kinh này thì câu "Các ngươi hãy tự thắpđuốc lên mà đi" đã được Phật dạy vào lúc sắp nhậpNiết-bàn và lúc nhiều giáo pháp đã được Phật nói ra.Như thế có theo Phật ta mới hiểu rõ đường lối tu hành,mới thoát khỏi các ý nghĩ ỷ lại sai lầm rằng ta có thểnhờ người khác đem lại giác ngộ và hạnh phúc chân thậtcho ta, và mới hiểu tại sao phải tự thắp đuốc lên màđi và thắp bằng cách nào để khỏi bị ở mãi trong chốntối tăm đau khổ.

5. Ðạo Phật chủ trương lýtrí, chú trọng thực tiễn, tại sao trong kinh còn có nhữngchỗ nói đến các vị thần, như thiên thần, lâm thần, thọthần v.v... Như thế Phật giáo cũng tin có quỷ thần, mơ hồ?Phật giáo cũng là một đa thần giáo?

- Xin thưa: Phật giáo không hề lấyviệc tin quỷ thần, cầu khấn, thầm làm phương châm giảikhổ, nhưng Phật giáo quan niệm giữa vũ trụ có vô lượngthế giới và vô số chúng sanh xuất hiện dưới vô số hìnhthức sai khác, lớn có, bé có, ở hư không có, ở dưới biểncó, hữu hình có, vô hình có, tùy theo căn thức và nghiệpcảm. Mỗi chúng sanh cũng chỉ là mỗi chúng sanh, không chúngsanh nào có thể sáng tạo và cai quản chúng sanh nào, ngoạitrừ tánh cách tương quan hổ thành theo luật nhân duyên nhânquả. Do đó, Phật không bao giờ khuyên dạy người ta cầuxin phúc họa nơi quỷ thần, mà dạy người ta lo cầu xin họaphúc ngay nơi mình. Khác với đa số người thế gian và đathần giáo xem quỷ thần như những vị sáng tạo và có quyềnphép ban phước giáng họa và người ta cần đến đó cầuxin hoặc sợ sệt kính lễ, trong khi Phật giáo dù nói đếnthần này thần kia chỉ có nghĩa tại chỗ kia chỗ nọ màthôi, có với không có nó không là việc bận rộn đến tinhthần của những Phật tử chân chánh.

6. Người ta nói "Quốc gia hưngvong thất phu hữu trách", một thường dân còn có bổn phậnđối với quốc gia xứ sở, huống những người cầm quyềntrị vì, thế nhưng trong kinh có đoạn kể chuyện vua tôi nướcnọ đều xuất gia cả. Xuất gia như thế có hại cho quốcgia không? Có thụ động, trốn trách nhiệm không?

- Xin thưa: giá trị của sự xuấtgia ở chỗ khác đã có nói nhiều, ở đây xin tóm tắt rằngsự xuất gia chân chính bao gồm một ý nghĩa từ bỏ dụcvọng, tham lam, ngã chấp, để khuôn mình trong lối sống đạođức với chí hướng cầu chân thiện mỹ và ban phát chânthiện mỹ. Xuất gia như thế đâu phải là một hành vi thụđộng, trốn đời, hại đời? Và đâu dễ có mấy ngườixuất gia, khiến đến nỗi quốc gia phải suy yếu vì họ?Vả chăng việc nước là việc chung, không người này cònngười khác, một số rất nhỏ người xuất gia có thấm vàođâu với đại đa số dân chúng. Một điều mà thiết tưởngai cũng thấy rõ, nước mạnh không nhất thiết phải dân đôngnhưng cốt phải muôn dân nhất trí, và muốn cho muôn dân nhấttrí là phải có đạo đức, hy sinh, công chính. Mọi ngườidân trong khi cố công kiến thiết, họ cũng phải cố côngxây dựng ở họ, ở người khác một sức mạnh đạo đức,biết hy sinh, không ích kỷ, không cố vị tham quyền mới duytrì được nền an lạc chung. Như thế suy đến chuyện xuấtgia của vua tôi nước nọ, thay vì nói đó là yếm thế, trốntrách nhiệm, ta hãy nói đó là một cử chỉ cao thượng hiếmcó, đã nêu một gương sáng không tham cố quyền lợi, khôngcố thủ địa vị là điều xưa nay thật khó tìm thấy ởtrong bao nhiêu người có địa vị trong tay. Tuy vậy, thậtra việc xuất gia như trên rất hiếm có trong lịch sử vàgiả sử có ta cũng thấy rõ đâu có làm hại cho quốc gia,xã hội bằng những con người bất nhân vô đạo, cố vịtham quyền kết tụ lại trong quốc gia hay thế giới, mà xưanay đâu đâu cũng có. Cứ xem nhân loại ngày nay ta cũng đủthấy là hiện đang đau khổ vì dục vọng hay những lời dạyly dục và sự xuất gia như trên?

Tóm lại, trong khi xem kinh, nên cócon mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phậtquyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lờinào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu, và suy nghiệmlối thuyết pháp tất đàn của Phật mới mong học đượcnhững chỗ đáng học, nắm được chỗ chính yếu của giáolý để khỏi kẹt vào những thắc mắc không trọng hệ nhưnglắm lúc làm trở ngại những giáo lý trọng hệ cần đượcchú tâm suy tầm tu niệm nhiều hơn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2021(Xem: 4779)
Dịch bệnh là một chu kỳ, từng tồn tại với nhân loại từ xa xưa như dịch tả, dịch bại liệt, Sốt Rickettsia, Sốt vàng da. Lao,sốt rét, dịch hạch,dịch cúm, dịch aids, đậu mùa, yết hầu.. Những loại dịch thường xuất hiện vào những vúng có đời sống thiếu vệ sinh; tuy nhiên dịch virus Corona, aids không phát xuất từ điều kiện sống mà do hoạt động, hành xử của con người đối với con người, con người đối với thiên nhiên với nhiều lý do khác nhau. Các nhà khoa học đã tìm ra vaccine cho bệnh đậu mùa vào năm 1796, tuy nhiên, vi khuẩn dịch có thể tùy biến; cũng thế virus Corona hiện nay, không chỉ là loại dịch nguy hiểm giết hàng chục triệu người, ngay cả dịch đậu mùa, dịch Aids, cúm… đều tổn thất nhân mạng vô số người trên toàn thế giới. Virus Corona hiện nay đặt nhiều nghi vấn phát sinh từ động vật hoang dã như dơi hay từ phòng thí nghiệm do con người tạo ra, tất cả đều là duyên cớ theo từng chu kỳ sống của loài người để cân bằng sinh thái khi trái đất chịu quá tải và sự bạc đãi của con
08/08/2021(Xem: 18856)
QUAN ÂM THỊ KÍNH Truyện Thơ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao Tranh Minh Họa: Hương Bối LỜI NÓI ĐẦU Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.
08/08/2021(Xem: 5655)
Thông thường hằng ngày tôi có nhiều việc để hanh trì, và ngoài việc tu học tại Tổ Đình Viên Giác Hannover Đức Quốc ra, tôi hay viết sách, dịch Kinh và có thêm mấy việc khác nữa cũng tương đối quan trọng. Đó là điểm sách hay viết lời giới thiệu sách cho một tác giả nào đó sắp có sách xuất bản. Tôi rất hoan hỷ để làm việc nầy. Bởi lẽ người ta tin tưởng mình, họ mới giao cho mình đứa con tinh thần của họ để mình đọc và cho ý kiến, cũng như giới thiệu đến với quý độc giả khắp nơi.
08/08/2021(Xem: 5188)
Sách dày 572 trang kể cả phần tiếng Anh. Riêng phần tiếng Việt bắt đầu từ trang 1 đến trang 272 và phần tiếng Anh bắt đầu từ trang 277 đến cuối sách. Sách do Phật Việt Tùng Thư tại Hoa Kỳ xuất bản lần thứ nhất năm 2021. Sách được trình bày bởi Lotus Media/Vĩnh Hảo. Bên trong có nhiều phụ bản rất đẹp được trình bày bởi Hạnh Tuệ và Hạnh Từ. Ảnh bìa có hình gác chuông chùa Hải Đức Nha Trang. Có loại bìa cứng và có loại bìa thường. Sách in rất trang nhã, dễ đọc.
08/08/2021(Xem: 6953)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
08/08/2021(Xem: 5818)
Tái sinh, hay là câu chuyện sinh tử luân hồi từ kiếp này sang kiếp kia, là một trong các giáo lý đặc biệt của Phật Giáo. Khi chưa giác ngộ, tái sinh là do nghiệp lực. Nhưng khi đã sống được với cái nhìn không hề có cái gì gọi là “ta” với “người” thì tái sinh là do nguyện lực. Một trong những người nổi tiếng nhất hiện nay, và được dân tộc Tây Tạng tin là hiện thân của tâm từ vô lượng, là Đức Đạt Lai Lạt Ma, một trong những hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, người giữ tâm nguyện tái sinh liên tục vì lợi ích độ sinh.
08/08/2021(Xem: 5063)
Đoạn video gần đây cho thấy Chính quyền địa phương ở tỉnh Cam Túc đã cưỡng bức các vị tăng ni, phải từ bỏ cuộc sống xuất gia, cởi áo Cà sa để đóng cửa một tu viện Phật giáo Tây Tạng, Tu viện Kharmar (Ch: Hongcheng).
08/08/2021(Xem: 4308)
Sáu tháng sau khi quân đội Myanmar lật đổ Chính phủ được bầu của bà Aung San Suu Kyi trong cuộc đảo chính ngày 1 tháng 2 vừa qua, người dân của quốc gia Đông Nam Á này tiếp tục sống trong nỗi sợ hãi, trong bối cảnh hỗn loạn diễn ra sau cuộc đảo chính Quân đội. Với các cuộc đàn áp bạo lực công khai đối với những người bất đồng chính kiến, và các cuộc biểu tình trên đường phố - tiếp tục diễn ra ở quy mô bất chấp sự đàn áp do quân đội lãnh đạo – chính quyền quân sự đã củng cố quyền lực của mình. Ngay cả Tăng đoàn Phật giáo được tôn kính của quốc gia cũng đã bị chính quyền quân sự bạo lực bắt giữ, được biết với ít nhất 23 vị tăng sĩ đang bị giam giữ, một số người trong số họ đã bị tra tấn bạo lực.
08/08/2021(Xem: 3365)
Nhiều người đổ lỗi toàn cầu hóa bởi đã gây ra đại dịch Covid-19, và cho rằng cách duy nhất để ngăn chặn mạnh mẽ hơn nữa, sự bùng phát của những cơn đại dịch hiểm ác như thế này là phi toàn cầu hóa thế giới. Rào chắn, bế quan tỏa cảng, giảm giao thương. Tuy nhiên việc cách ly ngắn hạn là cần thiết để ngăn chặn dịch bệnh, cô lập dài hạn sẽ dẫn đến sụp đổ kinh tế, mà không mang lại bất kỳ sự đảm bảo thực sự nào trước những dịch bệnh lây nhiễm. Liều thuốc giải hữu hiệu trong phòng, chống Covid-19 không phải là chia rẽ, mà là đoàn kết.
07/08/2021(Xem: 28351)
Chủ đề: Thiền Sư Từ Đạo Hạnh (1072-1116) (Đời thứ 12, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vị Thiền Sư sau khi viên tịch tái sanh trở lại làm Vua vào triều đại nhà Lý VN) Đây là Thời Pháp Thoại thứ 269 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Bảy, 07/08/2021 (29/06/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 10:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]