Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Nguyên lí duyên khởi trong giáo pháp Đức Phật

17/11/201017:02(Xem: 8419)
1. Nguyên lí duyên khởi trong giáo pháp Đức Phật


NGUYÊNLÝ DUYÊN KHỞI
TRONG GIÁO PHÁP ÐỨC PHẬT
Hễ nói đến Giáopháp của đức Phật, chúng ta không thể không nói đến phápDuyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa). Vìpháp Duyên khởi là nguyên lý cơ bản và thiết yếu của sựgiác ngộ.

Ðức Phật thành Phật là do Ngàichiêm nghiệm hai mặt lưu chuyển và hoàn diệt của nguyênlý 12 Duyên khởi mà thành tựu.

Trong kinh A-hàm đức Phật nói: "Thếnào là nguyên lý Duyên khởi? Nghĩa là do duyên với Vô minhmà Hành khởi sinh, dù Phật có ra đời hay không ra đời, nguyênlý ấy vẫn thường trú, vẫn an trú trong pháp giới. Như Laitự mình chiêm nghiệm nguyên lý ấy để giác tri, để thànhtựu Vô thượng Bồ-đề, rồi tuyên thuyết, rồi khai thị,rồi hiển phát cho mọi người". (Tạp A-hàm, q.12 tr. 84b ÐTK2).

Do giác ngộ nguyên lý Duyên khởi,đức Phật hiển nhiên trở thành Phật. Nên khi dạy dỗ, giáohóa chúng sanh, đức Phật đã khai thị nguyên lý này qua nhiềudạng thức, qua nhiều cấp độ và qua nhiều phương tiệnsâu cạn khác nhau.

Kinh Pháp Hoa nói: "Chư Phật là đấngtôn kính, đầy đủ trí tuệ và từ bi, biết tất cả phápluôn luôn là không có tự tánh. Phật chủng cũng chỉ từduyên mà khởi. Vì vậy mà tuyên bố Nhất thừa. Sự an trú,sự định vị của tất cả pháp là vốn như thế. Nó vốnlà hình thái thường trú của thế gian, từ đạo tràng biếtmột cách chân xác như thế rồi, đấng Ðạo sư mới tùyphương tiện mà tuyên nói". (Kinh Pháp Hoa tr. 9b ÐTK9).

Giác ngộ một cách chân xác vềnguyên lý Duyên khởi là giác ngộ rằng, tất cả các phápkhông bao giờ sinh khởi cô độc, mà nó sinh khởi trong nguyêntắc tất yếu: "Nếu cái này hiện hữu, thì cái kia hiệnhữu; nếu cái này không hiện hữu, thì cái kia không hiệnhữu. Nếu cái này sinh khởi, thì cái kia sinh khởi. Nếu cáinày không sinh khởi, thì cái kia không sinh khởi".

Toàn bộ Giáo pháp của đức Phậtthuyết giảng chỉ trụ vào điểm này. Và cũng chính ở điểmnày làm nguyên lý phổ biến chung cho sự sinh khởi của tấtcả khí thế gian và tình thế gian.

Khí thế gian là mọi sự kiện hiệnhữu và tồn tại hoàn toàn về vật lý. Tình thế gian làmọi sự kiện hiện hữu và tồn tại gồm đủ cả tâm lývà vật lý, cũng có khi tồn tại thuần về tâm lý.

Tính Duyên khởi đối với tìnhthế gian, hay nói gọn lại nơi con người là Mười hai Duyênkhởi, gồm có Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyênDanh sắc, Danh sắc duyên Sáu xứ, Sáu xứ duyên Xúc, Xúc duyênThọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyênSanh, Sanh duyên Lão tử.

Mười hai Duyên khởi này làm nhânlàm duyên cho nhau, sinh khởi liên tục trong vòng nhân quả,khiến con người bị đắm chìm trong sinh tử luân hồi. Vànhân quả của 12 Duyên khởi này cứ tiếp tục sinh khởi khắpcả ba thời gian tạo thành cả một dòng sông vô tận.

Chẳng hạn, Vô minh và Hành là nhâncủa quá khứ. Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ,Hữu là nhân của hiện tại; Sanh, Lão tử là quả của vịlai.

Nhân quả ba đời trong 12 Duyên khởi,cứ cái này làm duyên cho cái kia, cái kia làm nhân cho cái này,cứ như thế sinh khởi cho đến vô cùng vô tận.

Trong 12 Duyên khởi này, mỗi yếutố có thể là nhân, có thể là duyên, và không có yếu tốnào là nhân hoàn toàn hay duyên hoàn toàn.

Chính 12 yếu tố Duyên khởi nàyđã làm nhân làm duyên cho nhau, để sinh khởi và chi phốitoàn bộ sinh mệnh, cũng như đời sống của con người.

Khi nào con người hiểu được 12yếu tố Duyên khởi này và quán chiếu thường trực về chúng,thì khi ấy, tùy theo mức độ sâu cạn của quán chiếu màtầm cỡ giác ngộ được khẳng định.

Kinh Ðại Bát Niết-bàn nói:

"Có bốn hạng giác ngộ về nguyênlý Duyên khởi: Bậc hạ trí quán chiếu mà không thấy đượcPhật tính, và do vì không thấy được Phật tính, nên chỉthành tựu được đạo quả Thanh văn mà thôi.

Bậc trung trí quán chiếu mà khôngthấy Phật tính, và do vì không thấy nên chỉ thành tựu đượcDuyên giác mà thôi.

Bậc thượng trí quán chiếu thậttính có sự thấy hiểu, nhưng không thấu triệt, và do vìthấy hiểu nhưng không thấu triệt, nên chỉ an trú vào địavị Thập trú của Bồ-tát mà thôi.

Bậc thượng trí, quán chiếu thậttính, do vì thấy rõ và quán triệt, nên chứng đắc đạoquả Vô-thượng" (Ðại Bát Niết-bàn kinh - Vol 27, tr. 524b.ÐTK 12).

Nguyên lý Duyên khởi là một thựctại tính (Tathata) là chơn như tính hay còn gọi là Phật tính(Buddhata). Phật tính của giác ngộ. Phật do giác ngộ 12 Duyênkhởi mà thành Phật. Vậy, 12 Duyên khởi là tính ngộ củaPhật.

Bất cứ ở đâu và bất cứ lúcnào, con người giác ngộ được tính ấy, thì lúc đó vàngay đó, con người có thể tự trả lời được câu hỏi,ta là ai? do đâu mà có? và tại sao ta bị khổ đau. Cũng chínhlúc đó, ngay đó, con người có thể tự giải cứu nhữngkhổ đau đang triền buộc lấy chính mình.

Tùy thuận theo 12 Duyên khởi, đâylà điều kiện ắt có và đủ, để con người luân lưu trongsanh tử luân hồi (Samsàra). Hoàn diệt và đình chỉ 12 Duyênkhởi, đây cũng là điều kiện ắt có và đủ, để con ngườidứt bỏ khổ đau, đi đến Niết-bàn (Nirvana).

Ðiều kiện ắt có và đủ hay còngọi là mệnh đề điều kiện (clause condition) của "nếu vàthì"; "thì" luôn luôn phản ảnh rất trung thực đối với"nếu". "Nếu" tác nhân như thế này, "thì" hậu quả sẽ xảyra như thế này; "nếu" tác nhân như thế kia, "thì" hậu quảsẽ xảy ra như thế kia...

Nhân (heru) và quả (phala) gắn liềnvà sinh khởi là do duyên (pràtitya). Nếu thiếu duyên nhân khôngthể nào phát sinh ra quả được.

Trong quá trình sinh diệt để biếnthái từ nhân đến quả và biến thái từ quả trở thànhnhân, thì duyên đã đóng vai trò khá tích cực trong sự quanhệ này.

Duyên, tiếng Phạn gọi là Pratityavà chữ Pratitya đã được Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna) giảithích ở trong Màdhyamika như sau: "Utpadyate pratìtyèmàn itìmepratyayah kìla" (Màdhyamika pratyaya parìksa gàtha V). Nghĩa là,do làm điều kiện cho cái kia sinh khởi, nhưng cái này ngườita gọi nó là những duyên.

Duyên hay là pratitya ở trong vănhọc Abhidharma, các luận sư Phật giáo đã phân chia thành nhiềuloại, nhưng sự phân chia có tính thống nhất, giữa các luậnsư, thì duyên (pratitya) gồm có 4 loại như sau:

a. Nhân duyên (Pratyàyàhetu):Tất cả các pháp sinh khởi và tồn tại đều do quan hệ giữanhân và duyên. Nhân (hetu) là năng lực động chính; duyên (pratitya)là điều kiện hỗ tương phụ, để cho năng lực tác độngấy được sinh khởi và hình thành.

b. Ðẳng vô gián duyên (Anantarapratitya):Ðẳng vô gián duyên hay còn gọi là Thứ đệduyên. Nghĩa là tất cả các pháp làm nhân làm duyên cho nhaumột cách liên tục, không bị gián cách.

Hay nói khác đi, pháp trước làmnhân cho pháp sau, pháp sau làm nhân cho pháp trước, các phápcứ tuần tự làm nhân làm duyên cho nhau, mà sanh khởi liêntục, nếu bị cách trở gián đoạn tức là thiếu cái duyênnày, pháp không sanh ra được.

c. Sở duyên duyên (Alambana pratìtya):Sở duyên tiếng Phạn gọi là Alambana; Alambana đi từ độngtừ gốc Lam, có nghĩa là leo, vin vào, dựa vào, nương vào,vướng vào... Như vậy, Alambana là đối tượng để cho cáikhác vin vào, dựa vào...

Alambana hay Sở duyên có thể làthế giới khách quan, pratìtya hay duyên có thể là thế giớinội tại, thế giới khách quan là đối tượng (sở duyên)để cho thế giới nội tại khởi sinh sự nhận thức.

Bất cứ cái gì hàm đủ cả chủthể năng phân biệt (pratìtya) lẫn đối tượng được phânbiệt (alambana), thì cái ấy gọi là Sở duyên duyên (alambanapratìtya).

Hay nói theo trường phái Duy thức(Vijnàptimàtrata Siddhi), cái nào có khả năng dẫn sinh sự nhậnthức và sự nhận thức ấy, mang ảnh tượng tương tợ vớichúng, thì cái ấy gọi là Sở duyên duyên.

d. Tăng thượng duyên (Adhipateyampratìtya):Tăng thượng duyên gồm có thuận duyên và nghịchduyên.

- Thuận duyên: là duyên thuậnchiều để cho các pháp sinh khởi một cách nhanh chóng từnhân đến quả.

- Nghịch duyên: là duyên đối khánglàm trở ngại sự sinh trưởng của nhân.

Tất cả pháp có thể sinh khởi, tồntại hay hủy diệt, đều lệ thuộc vào bốn duyên này.

Trong bốn duyên, thì Ðẳng vô giánduyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên là biệt tướng,còn Nhân duyên là tổng tướng. Nên khi chúng ta nói nhân duyên,thì có thể hàm đủ cả ba duyên kia.

Tất cả pháp là duyên khởi, thìnhất định không có tự tính (asvabhava), do không có tự tínhnên chúng mới sinh động vô thường (anitya). Vô thường làtính thường trực của các pháp Duyên khởi, tính thườngtrực của các pháp Duyên khởi là tính không có tự tính,do tính không có tự tính nên các pháp luôn luôn sinh thànhvà luôn luôn hủy diệt.

Bởi vậy, 12 Duyên khởi nó cũngkhông có tự tính cho chính nó, nên nó có thể trở thành bấtcứ tính nào. Nếu duyên xấu, nó có thể trở thành tính xấu;nếu duyên tốt, nó có thể trở thành tính tốt.

Do đó, trong 12 Duyên khởi, chúngta có thể thay thế Vô minh bằng chánh kiến, Thức bằng chánhtrí, Hành bằng chánh nghiệp v.v... để đi đến đời sốngcao thượng.

Sở dĩ chúng ta có thể thay thếđược như vậy, vì tự thân của chúng ta là duyên khởi.

Ðứng ở mặt nhận thức chung mànói, nếu chúng ta chiêm nghiệm về nguyên lý Duyên khởi, thìchúng ta có thể thấy được toàn bộ cơ hợp của vũ trụvà chúng ta có thể chuyển đổi vũ trụ tùy theo ý chí cánhân và ý chí cộng đồng.

Ðứng ở mặt nhân sinh mà nói,nếuchúng ta chiêm nghiệm nguyên lý 12 Duyên khởi, chúng ta có thểthấy được chính chúng ta, và chúng ta có thể sửa soạncho chúng ta một cách sống hợp lý.

Và đứng vào lập trường giácngộ mà nói, nếu chúng ta quán sát về nguyên lý Duyên khởi,chúng ta có thể thấy được Phật, vì chúng là phẩm tínhgiác ngộ của Phật, chúng ta có thể thấy được pháp thâncủa Phật, vì Phật lấy pháp làm bản thân và bản thân củapháp là duyên khởi.

Chúng ta quán sát lý Duyên khởi,chúng ta có thể thấy được thực trạng đau khổ của cuộcđời và nguyên nhân phát sinh những đau khổ ấy, có thểnhìn thấy con đường đi đến Niết-bàn và cảm nhận sựtịch tịnh của Niết-bàn.

Ngài Long Thọ (Nàgàrjuna) ở trongTrung quán luận, đã mượn một thành ngữ nổi tiếng củaTrung A-hàm để nói lên ý nghĩa này:

"Thị cố kinh trung thuyết,
Nhược kiến nhân duyên pháp,

Tốc vi năng kiến Phật,

Kiến khổ, tập, diệt, đạo".

(Trung Quán Luận, tr. 334c. ÐTK30)
Tạm dịch:
"Vì thế trong kinh nói,
Nếu thấy pháp Duyên khởi,

Có thể là thấy Phật,

Thấy khổ, tập, diệt, đạo".
Ðức Phật đã thấy pháp Duyên khởibằng hai cách quán chiếu. Ðó là cách quán chiếu lưu chuyểnvà cách quán chiếu hoàn diệt.

Cách quán chiếu lưu chuyển là cáchquán chiếu mà đức Phật đã giác ngộ nó theo chiều thuận- nghĩa là cái này sinh nên cái kia sinh - vì Vô minh sinh khởinên Hành sinh khởi...

Cách quán chiếu hoàn diệt là cáchquán chiếu mà đức Phật đã giác ngộ duyên khởi theo cáchđình chỉ và diệt tận. Nghĩa là do cái này diệt nên cáikia diệt. Vì do Vô minh diệt nên Hành cũng diệt...

Do giác ngộ duyên khởi đủ cảhai mặt lưu chuyển và hoàn diệt mà đức Phật thành Phật.

Bất cứ ai, thấy được pháp Duyênkhởi cả hai mặt, người đó có thể thấy Phật, có thểthấy được pháp thân của Phật và ngay trong Duyên khởi cóthể thấy được khổ, tập, diệt, đạo.

Chẳng hạn, quán chiếu 12 Duyênkhởi theo lưu chuyển, đó là cách quán chiếu về khổ vàtập, cách quán chiếu Duyên khởi theo hoàn diệt, đó là quánchiếu về diệt và đạo.

Hay nói theo ngài Uất-lăng-ca, thấyVô minh, Hành, Ái, Thủ, Hữu là thấy Tập đế; thấy Thức,Danh sắc, Lục nhập, Thọ, Sanh, Lão tử là thấy Khổ đế;hủy diệt 12 chi phần của Duyên khởi ấy, là Diệt đế;hiểu biết tính chất như thật của 12 Duyên khởi ấy, làÐạo đế (Duyên sanh luận tr. 468a ÐTK 32).

Như vậy, chúng ta có thể nói, chủyếu của giáo pháp đức Phật chính là pháp Duyên khởi vàpháp Tứ đế cũng chỉ được trình bày qua những giác khác,dễ hiểu hơn của pháp Duyên khởi mà thôi.

Ðối với tất cả loài hữu tình,tính Duyên khởi là Phật tính (Buddhata), đối với tất cảloài vô tình, tính Duyên khởi là Pháp tính (Dharmata).

Phật tính hay Pháp tính đối vớitình (sattva) hay phi tình (asattva) đều là tính thường trú,tính quyết định và tính y tha.

a. Tính thường trú:Nguyênlý Duyên khởi là nguyên lý có tính thường trú - Nghĩa làtất cả pháp trong quá khứ cũng do duyên mà khởi, hiện tạicũng do duyên mà khởi, nơi này cũng do duyên mà khởi, nơikia cũng do duyên mà khởi. Bất cứ ở đâu và bất cứ lúcnào, pháp vốn là như thế, pháp vốn là duyên khởi, nên tínhduyên khởi là tính thường trú của tất cả pháp.

Lại nữa, tính ấy, nếu đứngở mặt thuần giác ngộ mà nói, thì chư Phật trong quá khứ,như đức Phật Tỳ-bà-thi (Nipasì), Phật Thi-khí (Sikhì), PhậtTỳ-xá-phù (Vessàbhù), Phật Câu-lưu-tôn (Kakusandha), PhậtCâu-na-hàm (Konàgamana), Phật Ca-diếp (Kassapa), tất cả chưPhật đều do quan sát chiêm nghiệm về lý Duyên khởi mà thànhtựu Vô thượng Bồ-đề (Anuttara Samyaksambodhi).

Ngay trong hiện tại, đức PhậtThích-ca Mâu-ni (Sakyamuni) cũng do quán sát, chiêm nghiệm lýDuyên khởi mà thành Phật. Và vị lai chư Phật cũng sẽ nhưthế, thì không thể không quán sát nguyên lý Duyên khởi. Vìthế nguyên lý Duyên khởi ở quá khứ nó đã xảy ra và hiệnhữu như thế. Vị lai nó sẽ xảy ra và nó sẽ hiện hữunhư thế ở nơi này, hoặc nơi kia; nó đã, đang và sẽ xảyra; và nó cũng đã, đang và sẽ hiện hữu như thế.

Vì do bất cứ ở đâu và bất cứlúc nào, chính Duyên khởi cũng xảy ra như vậy cả, nên gọichúng là pháp có tính thường trú, siêu việt và bất tư nghị.

b. Tính chất quyết định:Pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi, là nguyên lý cótính cách quyết định sự hiện hữu và không hiện hữu củatất cả pháp hay của tất cả sự vật. Nếu đủ duyên thìcác pháp sinh khởi; không đủ duyên thì các pháp tán loạn.

Nói cách khác, nếu không có duyên,thì không có một pháp nào tự thân nó duyên khởi được.

Bởi vậy, Kinh nói: "Tất cả pháptự nhân duyên sinh khởi, nếu không có nhân duyên thì khôngcó sự sinh khởi của tất cả pháp". (Quán Thế AÂm Bồ-tátthọ ký kinh. Tr. 353c, ÐTK 12).

Do đó, nguyên lý Duyên khởi cótính cách quyết định sự tồn tại hay không tồn tại củatất cả pháp hay của tất cả sự vật.

c. Tính y tha:Pháp Duyên làpháp có tính nương tựa lẫn nhau để sinh khởi. Do tính này,nên các pháp không bao giờ có sự tồn tại độc lập nếucó chăng là có ở cách nói, chứ không bao giờ thực sự cóở bản chất.

Vì tự bản chất của chúng làhỗ tương, là nương tựa, là tác động qua lại lẫn nhauđể sinh thành và hủy diệt. Nên một sự hủy có thể kéotheo muôn ngàn sự hủy; một sự sinh có thể kéo theo muônngàn sự sinh. Và nếu chúng ta biết lắng nghe, thì chỉ cầnmột cánh bướm vỗ nhẹ, cũng nghe chao động cả ba ngàn đạithiên thế giới. Và nếu chúng ta biết ngắm nhìn, thì chỉcần nhìn thẳng vào một hạt cát, cũng đủ để thấy rõbản chất của thế giới mười phương.

Nói tắt, tính của các pháp làtính luôn luôn nương tựa, luôn luôn tác động lẫn nhau đểsinh khởi. Vì vậy, tính y tha là tính của pháp.

Ba tính vừa nêu, có thể nói đólà ba tính hệ trọng của pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyênkhởi.

Pháp Duyên khởi có thể nói làgiáo pháp chủ yếu của Phật giáo, vì pháp ấy bao hàm đủcả các pháp ấn vô thường(anitiya), khổ(dukkha),không(sùnya), vô ngã(àntama).

Các pháp ấy, không có trường pháinào trong Phật giáo, không xem chúng là giáo lý có tính cáchngăn để.

Ðành rằng, các pháp ấy, đượccác trường phái Phật giáo xem chúng là giáo lý có tính cáchngăn để, nhưng tại sao Duyên khởi lại là giáo lý nội hàmcác pháp ấn ấy? Giáo lý Duyên khởi nội hàm các pháp ấy,vì tất cả pháp là duyên khởi, cái gì do duyên khởi, thìcái ấy là vô thường, cái gì vô thường, thì cái ấy phảicó thành, trụ, hoại, không. Nếu chấp chặt và cảm thọvào những thành, trụ, hoại, không ấy, thì nhất định phảikhổ đau.

Tất cả pháp là duyên khởi nênkhông có tự tính, vì không có tự tính cho nên vô ngã, dovô ngã nên không có thần ngã nào gọi là bất biến và vĩnhcữu. Do không có một thần ngã nào gọi là bất biến vàvĩnh cửu, nên con người có thể tu tập, có thể cải tạo,có thể chuyển đổi từ ngu dốt đến trí tuệ, từ khổđau đến hạnh phúc, từ ác sang thiện, từ ích kỷ đếnvị tha, từ phàm tục đến thánh giả.

Dựa vào chừng ấy lý do, cũng đủđể cho chúng ta có thể kết luận rằng: nguyên lý Duyênkhởi là giáo pháp chủ yếu của đạo Phật. Chúngta thường trực quán chiếu và thường trực thấu triệt nguyênlý ấy, thì nhất định chúng ta sẽ là Phật như chư Phậtđã làm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/08/2021(Xem: 6554)
Các câu trích dẫn giáo huấn của Đức Đạt-lai Lạt-ma dưới đây được ghi lại từ một tư liệu trên trang mạng tiếng Pháp Evolution-101 https://www.evolution-101.com/citations-du-dalai-Lama/. Các câu này được xếp theo các chủ đề: 1- Tình thương yêu 2- Tiền bạc 3- Hạnh phúc 4- Lòng tốt
18/08/2021(Xem: 9719)
LỜI MỞ ĐẦU Thông thường ở bất cứ quyển sách nào cũng có lời mở đầu của chính tác giả, hoặc lời giới thiệu của một người nào đó cho tác phẩm sắp được ra đời. Nay cũng nằm trong thông lệ ấy, tôi viết lời nói đầu cho quyển sách năm nay lấy tên là: "CHÙA VIÊN GIÁC", một quyển sách bằng tiếng Việt mà bao nhiêu người đã chờ đợi.
17/08/2021(Xem: 7473)
Thật là một điều kỳ diệu và lý thú khi được tin báo trên Viber là Tuyển Tập pháp Thoại vừa hoàn thành và đã sẵn sàng đến tay Phật Tử khi đến dự Lễ Vu Lan tại Tu Viện Quảng Đức (nếu không bị lockdown). Vì sao gọi là kỳ diệu? Chỉ sau khi tôi được học xong 10 duyên mà Đức Phật cho là quan trọng nhất theo thứ tự của 24 duyên, mà chúng ta ai cũng phải gặp trong thời gian còn làm người phàm, và nếu hiểu rõ tường tận thì mình có thể sẽ không bao giờ thốt lên câu “Học muôn ngàn chữ nghĩa nhưng không ai học được chữ Ngờ” của bộ Đại Phát Thú / Vi Diệu Pháp, do Giảng Sư Thích Sán Nhiên đã thuyết giảng qua 61 video, mỗi video kéo dài từ 3: 00 đến 3:50 giờ. Chính vì thế, nhờ đó tôi chợt nhận ra nhân duyên gì đã làm trưởng duyên và đẳng vô gián duyên, để tôi đến với Đại Gia Đình Quảng Đức Đạo tràng nói chung, và tiếp xúc liên hệ với TT Trụ trì Tu viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng và được cộng tác với Ngài trên trang website Phật Giáo, Trang Nhà Quảng Đức, để rồi hôm nay lại có duyên
17/08/2021(Xem: 5038)
Phần này bàn về cách dùng nên so với lên vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các âm này được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Ngoài ra, từ thời Việt Bồ La thì nước Việt đã mở rộng bờ cõi đến tận Cà Mau và khuếch đại các sự khác biệt trong ngôn ngữ như phương ngữ Nam bộ (tiếng Nam Kỳ) so với Bắc Bộ. Do đó các nhân tố địa-chính-trị đã đóng phần không nhỏ trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại, thí dụ như cách nói "nên mười tuổi", cùng với khuynh hướng "chuẩn hóa" tiếng Việt so với hiện tượng lẫn lộn n và l mà một số tác giả cho là ‘nói ngọng’ đều liên hệ phần nào đến chủ đề bài này.
16/08/2021(Xem: 7160)
Con người sinh ra từ xưa đến nay ai ai cũng phải trải qua 4 giai đoạn. Đó là: Sanh, Già, Bệnh và Chết. Tuy nhiên cũng có người chỉ sanh ra rồi chết liền, không trải qua giai đoạn già hay bịnh; hoặc có người chưa già đã chết vì bịnh hay tai nạn; cũng có lắm người phải sống đến 100 năm hay hơn thế nữa để thấy cuộc thế đổi thay, nhiều khi muốn chết mà chết cũng không được. Dẫu biết rằng sống hay chết là một việc tự nhiên của con người, của muôn vật và ngay cả những chúng sanh có đời sống cao hơn và lâu dài hơn chúng ta, như những vị được sanh ra ở cõi Sắc hay cõi Vô Sắc đi chăng nữa, rồi một ngày nào đó cũng phải chết, phải đi đầu thai. Họ chỉ khác chúng ta là ở cõi đó đời sống sung sướng hơn, có tuổi thọ dài lâu hơn. Vì khi làm người, họ đã biết tạo dựng nhiều phước báu, nên kiếp nầy họ mới được như vậy.
15/08/2021(Xem: 4923)
Cúng ma chay, giỗ người thân đã mất, giỗ ông bà tổ tiên, cúng cô hồn vào những ngày rằm, ngày lễ như lễ Vu Lan, Tết Nguyên Đán …vv cùng với đốt vàng mã là truyền thống ‘tâm linh’ lâu đời của người Việt Nam, là cách tưởng niệm, bày tỏ lòng biết ơn, hiếu đễ đối với người đã khuất, tổ tiên và thần linh. Ngày nay, việc cúng người chết, cúng ‘cô hồn’ và đốt vàng mã tràn lan trên tinh thần kiến chấp ‘dương sao âm vậy’, nên các loại vàng mã thay đổi đa dạng sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế nầy: ngoài áo giấy ra, vàng mã còn có cả xe hơi, nhà lầu, ipad, di động, đô la vv với ý niệm ‘thiện lành’ (nhưng tà kiến) là để người ‘âm’ sử dụng. Không những tập tục này phát triển biến tướng trong nhân gian mà còn ảnh hưởng không tốt đến môt số Phật tử tại gia, và ngay cả tại một số tự viện.
15/08/2021(Xem: 7351)
Là người hay là thú, sinh ra đời nếu bộ não bình thường thì tất cả đều có cái biết. Biết đói, biết no, biết khát, biết nóng, biết lạnh, biết thiếu, biết đủ v.v… Tâm trí loài vật, có nhiều loài khá khôn ngoan, nhưng khôn ngoan cách nào cũng không bằng con người. Khi còn nhỏ cái biết của con người rất hạn hẹp. Khi lớn lên cái biết dần mở rộng, nhờ học hỏi từ môi trường gia đình, học đường, xã hội. Tùy theo căn cơ mà có người thông minh học một biết mười, có người kém thông minh chậm hiểu. Nhưng dù cái biết của người thông minh hay cái biết của người kém thông minh thì đó cũng là cái biết cần thiết cho đời sống.
13/08/2021(Xem: 6374)
Công ơn cha mẹ tựa biển trời Làm sao báo hiếu hỡi người ơi? Nếu chưa báo hiếu đừng bất hiếu Bất hiếu làm ta khổ trọn đời.
13/08/2021(Xem: 8984)
Nam Mô Vu Lan Hội Thượng Phật Bồ Tát Phật Dạy Ân Đức Cha Mẹ - A-nan! Ân đức cha mẹ có 10 điều sau đây: MỘT là ân thai mang giữ gìn: Vì sự nghiệp lực nhân duyên, nên nay ky' thác thai mẹ. Lâu ngày khổ sở, chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội núi, đi đứng sợ gió mưa, quần áo không sửa soạn, trang điểm còn kể chi.
09/08/2021(Xem: 8147)
Các lời trích dẫn giáo lý của Đức Phật cùng các danh nhân khác thường thấy trên mạng, báo chí và tạp chí đủ loại tại các nước Tây phương. Dường như trong cuộc sống dồn dập tại các nơi này, một số người đôi khi cũng thích đọc một vài câu ngắn gọn nhưng sâu sắc, giúp mình suy nghĩ về xã hội, con người và sự sống nói chung.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]