Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngày Xuân Với Người Phật Tử

13/05/201312:38(Xem: 10161)
Ngày Xuân Với Người Phật Tử
Cho Trọn Mùa Xuân


Ngày Xuân Với Người Phật Tử

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com


mai-3Cứ mỗi lần tròn mười hai tháng, ba trăm sáu mươi lăm ngày, đó đây không ai bảo ai, mọi người tự cảm thấy lòng mình trỗi dậy niềm hân hoan như muôn ngàn tia sáng bình minh, chan hòa hương sắc của đất trời, khắp nơi vũ trụ gió thoảng ngàn phương, phưởng phất ánh xuân dương, tất cả như hội tụ nơi lòng nhân thế. Trên gương mặt mọi người hiện nét tươi hẳn lên, điểm trên đôi môi nụ cười cởi mở hy vọng. Hy vọng một năm mới tốt lành hạnh phúc sáng sủa.

Xuân về hoa lá nẩy nở tốt tươi như nụ cười vũ trụ. Nhưng thật sự cảnh vật xanh tươi trong ngày xuân tết chỉ có với quê hương Việt-Nam, trên đất mẹ chôn nhau với tiếng khóc chào đời, chứ người Việt-Nam tỵ nạn cộng sản còn mang kiếp sống tha hương trên đất khách quê hương, thì mỗi độ xuân về nhìn thấy khắp nơi nơi phơi bày băng tuyết giá lạnh, cỏ cây úa lá trơ cành. Nhưng quê hương Việt-Nam giờ đây dưới chế độ vô thần cộng sản, dân chúng đâu còn lòng dạ bình an tự do hưởng xuân, mà xuân chỉ có cho đảng và cán bộ ưu tiên đặc quyền hưởng lợi của kẻ thống trị!

Xuân tết với người thế gian, ngoài việc cúng quảy tổ tiên, tiếp theo đó là những cuộc liên hoan tiệc tùng rượu thịt, sòng bài canh bạc nhảy nhót say sưa. Thế nhưng tiếng cười mừng xuân chưa dứt, lời chúc tụng trên môi chưa tròn, là tiếp theo những nỗi lo rầu bệnh hoạn do những cuộc vui chơi dục lạc chè chén quá độ trong ba ngày xuân. Cảm nhận điều đó nên thi nhân nói:

Xuân cho thỏa chí tang bồng
Thịt quay rượu nặng thỏa lòng ai ơi!
Xuân trong tiếng hát câu cười
Hả hê phỉ sức một đời người thôi.

Xuân đối với người đời là dịp nghỉ ngơi đôi ngày để hưởng thụ, chè chén cuộc cờ, hoặc ngao du thưởng ngoạn lấy lại sức để rồi tiếp tục sáng chiều bôn ba đông tây phấn đấu kiếp trâu cày cho kế sanh nhai trong suốt năm mới. Nhưng cũng trong dịp xuân tết, bên cạnh những tiệc tùng rượu nồng thịt thắm, áo gấm nữ trang lòe loẹt, thì đó đây cũng có biết bao người đầu tắt mặt tối sống một đời hẩm hiu thiếu thốn nơi ăn chốn ở trăm bề! Nên chi khi xuân về khiến cho lòng họ tê tái tủi phận xót xa:

Xuân đến làm chi thêm tủi lòng
Với xuân tôi trót chẳng chờ mong
Nắng sương trọn kiếp còn chưa đủ
Xuân đến lòng tôi thêm não nùng

Đâu phải xuân tết đến ai cũng vui mừng, khoe khoang trang điểm tiệc tùng. Mà lắm khi xuân tết đến làm cho người đang sống trong gia cảnh thiếu trước hụt sau, kẻ lỡ thời thất vận buồn đau não nề:

Xuân đến làm chi đấy hỡi xuân?
Lòng tôi se thắt lại vô ngần
Hoa cười áo thắm trong xuân ấm
Lòng tôi vẫn buốt lạnh căm căm!

Xuân với người Phật tử chân chánh có tâm hạnh tu hành buông xả thì có ý nghĩa đặc biệt hơn người trần thế. Người Phật tử chân chánh biết sống tri túc, suốt rõ nghiệp duyên nhân quả, sống với thực tại, không hăm hở tham trước khi việc đã thành, không đau khổ sầu thương tiếc nuối khi thất bại tan tành, không vui buồn theo sự còn mất thịnh suy, nhất là không đắm mình trong ngũ dục lạc, nên không xảy ra bệnh hoạn tai nạn một cách oan uổng, cũng không có trạng thái mong muốn vui buồn quá độ.

Xuân đến, ngoài bổn phận con cháu đối với ông bà, ngoài bổn phận hậu bối đối với tiền nhân, người Phật tử còn có bổn phận đối với chính mình. Bổn phận với chính mình là bình tâm kiểm điểm lại mình, hồi quang phản tỉnh nơi mình, suốt một năm qua có được giác ngộ trên đường giác ngộ thánh thiện hóa chưa? Có tu tâm sửa tánh hành thiện và phát nguyện tinh tấn hơn chưa? Với tinh thần từ bi lợi tha hỷ xả mà mình thường đọc tụng luận bàn thì đã làm gì cụ thể chưa? Nếu chưa là còn thiếu bổn phận, là thoái hóa, là để ngày qua tháng lại thoạt đã bạc đầu mà chưa làm được gì, chưa bước thêm được bước nào trên đường thánh thiện, thì nên sanh tâm hổ thẹn, với chính lòng mình, hổ thẹn với bạn hiền, hổ thẹn khi mình nghiêng mình cúi đầu lễ Phật, vậy thì tự nguyện năm mới cố gắng tinh tấn hơn nữa. Nếu không, thì sẽ mắc cái lỗi cô phụ lời Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành. Các con nên cố gắng tu hành thì cũng sẽ thành Phật như ta.” Nếu không như thế, chẳng những phụ lòng từ bi của Phật mà ta còn vô tình phủ nhận khả năng thánh thiện của chính ta. Bởi đức Phật đã xác quyết tuyên bố rằng: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.”

Mỗi lần xuân đến, người Phật tử phải lặng lòng tịnh tâm phản tỉnh nhớ rằng: Mỗi lần xuân tết đến là ta đã âm thầm xa dần bến bờ tráng kiện sinh lực tuổi trẻ. Đồng thời ta cũng bước dần đến hố thẳm già yếu suy tàn. Phật dạy:

Ngày nay đã qua
Mạng người giảm dần
Như cá cạn nước
Nào có vui chi.

Buổi mai mùng một xuân tết đó đây phơi bày xác pháo đầy đường, muôn hoa tươi nở thì ngay trong khi đó đã âm thầm báo hiệu hiện tượng héo hon úa tàn tiếp theo:

Hoa nở để rồi tàn
Trăng tròn để rồi khuyết
Bèo hợp để rồi tan
Người gần để ly biệt
Hoa xuân không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in vết đau.

Chẳng những vạn vật cỏ cây, mà ngay con người cũng theo thời gian mà tàn phai hương sắc:

Rồi một ngày kia hương sắc tàn
Tuổi đời chôn lấp bụi trần gian
Tới lui mấy độ quan san ấy
Thắm gửi cho đời một tiếng than.

Người Phật tử không để cho ngày tháng trống không trôi qua vô ích, rồi buồn thương cho hương sắc tàn với thời gian năm tháng, mà phải tinh tấn với thời gian bằng cách tu tâm, sửa tánh, chánh niệm, làm lành, niệm Phật, tụng kinh, tham thiền để tiến dài tiến mãi, tiến mau trong ánh đạo vàng giác ngộ giải thoát. Có ý thức về lẽ sống, thì đời sống mới có ý nghĩa. Và như thế lòng an lành, tâm hoan hỷ, sống tự tại hài hòa trong ánh xuân tươi mát giải thoát. Đấy mới thật sự đạt ý nghĩa ngày xuân của người Phật tử.

Phật tử mà không tập sống theo lời Phật dạy là tự đày đọa mình, vong ân Phật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/10/2011(Xem: 7791)
Ở đây một trong những người thầy vĩ đại của thời đại chúng ta đặc biệt nói chuyện cùng những người trẻ và trình bày một triết lý thực tế của sự giáo dục không liên quan gì đến những cống hiến hiện nay trong hầu hết những trường học và đại học của chúng ta. Krishnamurti phơi bày những gốc rễ của sợ hãi và loại bỏ những thói quen được thiết lập sâu thẳm của truyền thống, mô phỏng, và thành kiến.
04/10/2011(Xem: 7457)
Tiếp theo, chúng ta nói về sự bố thí. Phía trước tôi đã nói đến có một lần tôi ở trường học, hôm khánh thành toà lầu Học viện Thương nghiệp, tôi cũng tham gia buổi lễ khai mạc. Trong buổi lễ, nhà trường có mời một vị giáo thọ người Mỹ nổi tiếng của Học viện Thương nghiệp đến diễn giảng. Sau khi tôi nghe rồi, tôi có cảm khái rất sâu sắc. Bởi vì ngay lúc đó hiệu trưởng đang ngồi bên cạnh tôi, chúng tôi rất thân quen nhau, tôi liền cảm khái nói với hiểu trưởng, tôi cười đùa mà nói với ông rằng giáo trình của Học viện Thương nghiệp này tôi cũng có thể dạy.
02/10/2011(Xem: 8472)
Hôm nay chúng tôi giảng về Sự tương quan giữa Bát-nhã và Thiền tông. Đề tài này hơi cao, quí vị chịu khó lắng nghe kỹ mới thấy giá trị của đạo Phật. CácThiền viện của chúng tôi trước khi sám hối phải tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Sau khi xả thiền cũng tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Nhiều người hỏi tại sao không tụng kinh khác mà lại tụng Bát-nhã Tâm Kinh. Bởi vì Bát-nhã Tâm Kinh là một bài kinh rất thiết yếu cho người tu Phật, chẳng những tu Thiền mà tu Tịnh, tu Mật đều quí cả.
25/09/2011(Xem: 9323)
Chúng ta không cần đi đâu xa, ở ngay tại nhà nhìn qua trang báo hằng ngày cũng đủ cho chúng ta thấy những tệ nạn xã hội hiện nay như thế nào. Rượu chè, cướp bóc, cờ bạc, mãi dâm... xảy ra thường xuyên, nếu ta có thời giờ bỏ ra vài năm hay cả cuộc đời để thống kênhững sự kiện ấy cũng không thể nào hết được, vì thế mà các nhà báo chí không thất nghiệp, nay tường thuật tệ nạn này, mai báo cáo tệ hại khác...
25/09/2011(Xem: 8892)
Dịch giả trước đây đã nêu lên chủ đề này qua một bài viết ngắn vàongày 7 tháng 8 năm 2010, mang tựa đề là "CâuChuyện về Barlaam và Joasaph: hay một sự trùng hợp lạ lùng giữa các tôngiáo",(có thể xem bài này trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức...). Thế nhưng quả là một sự ngạc nhiên kỳ thú là khilùng lại các tài liệu cũ thì tình cờ mới thấy rằng trước đó gần một năm Viện ĐạiHọc Phật Giáo Âu Châu (UBE : Université Bouddhhique Européenne) cũng đã đưa vấnđề này lên mạng trong số phát hành ngày 1 tháng 12 năm 2009, tức là vào dịp nhữngngày lễ cuối năm ở Âu Châu. Bài viết này có thể xem như là một bài khảo cứu nêulên một số dữ kiện để chúng ta cùng suy tư về một vài khía cạnh nào đó của tôngiáo nói chung.
24/09/2011(Xem: 7113)
Từ xưa đến nay, thế giới liên tục xảy ra bạo động chiến tranh, khủng bố, kỳ thị chủng tộc, bạo động giữa các tôn giáo, thì vấn đề kiến tạo nền hòa bình cho thế giới rất quan trọng. Nhưng vẫn chưa tìm ra một phương pháp thỏa đáng, trừ phi những quốc gia trên toàn cầu, cần phải thay đổi đường lối chính trị, văn hóa áp dụng tinh thần bất bạo động vào đời sống xã hội.
21/09/2011(Xem: 16975)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
15/09/2011(Xem: 7447)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹ là pháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng làđiều kiện quan trọng cơ bản làm người. Chúng ta nghĩ thử ngay cả loài chim muông còn biết báo ân nuôi mớm. Nếu như chúng ta không hiếu dưỡng cha mẹ thì chẳng phải không bằng loài cầm thú hay sao?
15/09/2011(Xem: 9559)
* Trong thời mạt pháp, nếu chỉ tu môn khác không kiêm cầu Tịnh Độ, tất khó giải thoát ngay trong một đời. Nếu đời này không được giải thoát bị mê trong nẻo luân hồi, thì tất cả tâm nguyện sẽ thành hư tưởng. Đây là sự kiện thiết yếu thứ hai, mà hành giả cần lưu ý.
15/09/2011(Xem: 8358)
Ngài Achaan Chah là một trong những vị đại sư nổi tiếng của đất nước chùa tháp Thái Lan. Ngài duy trì lối tu học truyền thống như thời của Đức Phật còn tại thế. Sự minh triết và đức hạnh của một vị thiền sư đã làm cho danh tiếng của Ngài vươn xa tới nhiều châu lục. Hiện nay, pháp thiền của Ngài - Thiền Minh sát tuệ - đã lan tỏa mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm A Still Forest Pool(Tâm Tĩnh Lặng), do hai môn đệ người Mỹ của Ngài là Jack Kornfield và Paul Breiter đã kết tập từ những bài giảng của Ngài và được xuất bản bằng tiếng Anh lần đầu tiên vào năm 1985. Mặc dù tác phẩm đã ra đời trên hai mươi năm, nhưng trí tuệ chân thực vẫn luôn tồn tại mãi với thời gian. Bài giảng sau đây, người dịch trích từ tác phẩm trên và xin giới thiệu cùng bạn đọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]