Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14 - Bài tựa kinh Kim Cương Tam Muội

24/04/201318:02(Xem: 10676)
14 - Bài tựa kinh Kim Cương Tam Muội


Khóa Hư Lục
Tác giả:Hoàng Đế Trần Thái Tông
Dịch giả:HT. Thích Thanh Kiểm

---o0o---

QUYỂN THƯỢNG

---o0o---

Bài Tựa Kinh Kim Cương Tam Muội

Trẫm nghe! Bản tính nhiệm mầu, chân tâm vẳng lặng. Thành hoại đều dứt, chẳng phải tính trí hay xét ngọn nguồn. Tan hợp đều không, đâu thể mắt tai xem nghe tường tận. Có, không xóa hết, đạo, tục san bằng. Đứng riêng một mình, không chi sánh được. Đó là then chốt của tự tính Kim-cương vậy.

Khốn nỗi! Chúng sinh đã lâu: Vì huân tập ô-nhiễm; thức thần dao-động, bởi sóng gió thấy nghe. Noi hạnh xấu làm theo ấy nhiều, xoay ánh tuệ để soi lại ít. Bèn khiến, bốn phương đổi chốn, mê mất ngả về; lối rẽ sai đường, mơ hồ chính đạo. Gốc ngọn chẳng rõ, chân vọng khó phân. Vàng ròng đem tạp khoáng nấu chung, trăng sáng lẫn bụi trần cùng hiện. Quê, mê ngả về nơi "Hà-hữu" (1), mặt, quên mất cả vẻ bản lai. Trên đường niết-bàn khó tiến lên, trong hố tử sinh cam lùi bước. Nên đấng năng-nhân (Phật) thầy ta, hiện vô-sinh từ-nhẫn, thương mọi khổ trầm luân. Bốn hoằng thệ nguyện để lòng, ba nghĩ (2) đắn đo càng thiết. Pháp-thân lắng, báo thân hiện sao lành ứng ở triền Chu. Tượng-pháp tới, chính-pháp qua, người vàng mộng trong cung Hán. Ma-Đằng, Pháp-Lan truyền đến, Tây-Trúc, Chấn-Đán mới thông. Chữ Phạn phiên thành, văn Hoa rực-rỡ. Thay thế lá bối, lấy lụa chép kinh. Bể giáo phô mọi ngọc châu. Trời nghĩa điểm bao sao sáng. Hoặc muốn thêm chỗ chưa đúng, hoặc đem vá chỗ chưa bằng. Đường nước Y-Ngô nối tung, lối mòn sa-mạc tiếp gót. Lối gần vượt biển, dốc chí tới Hoa. Từ Hán bắt đầu, tới nay mở rộng. Thiên, viên, bán, mãn, đều không thiếu trong tráp ngà; đốn, thực, tiệm, quyền, muôn có thừa trong rương báu. Kinh Kim-cương Tam-muội, há không phải là giáo-viên, mãn, đốn, thực đó sao? Nếu không thế, sao lại, lấy vô-sinh pháp-yếu, dùng phương-tiện thần-thông. Tu-Bồ-Đề hỏi xuất-thế nhân, Đức Như-Lai gieo vô-thượng quả. Muốn ngăn chận só sinh có diệt, trước phải bày vô-tướng vô-sinh. Thấy sinh niệm ở vọng niệm mà mờ, dấy thủy-giác nơi bản-giác để tỏ. Chuyển mọi tình thức, vào Úm-ma-la (vô cấu thanh tịnh thức). Mê đầu chẳng đoái tự thân, thõng tay dẫn về thật-tế (3). Hoặc vin ngoại-trần duyên có, nên nói chân-tính vốn không. Đến lúc ba tướng (4) chẳng quan, ắt hẳn bốn thiền nào có. Hòa các vị thành vô-thượng-vị. nắm mọi dòng làm bất-nhị-lưu. Chuyển xoay biến kế vọng tâm, tiếp vào Như-lai tạng-thức. Thâu tóm mọi pháp, hiển rõ nhất tâm. Nhân chấp mà mê, như nước Thục, nước Man cùng giữ chặt; bởi sai biết sửa, như nước Tề, nước Lỗ đều đổi thay.

Trẫm, vin vào đức làm chủ đất nước, dựa vào pháp để cai trị dân. Lo nghĩ gian nan, quên cả sớm tối. Việc tuy có hàng vạn, giờ rảnh lấy khoảng thừa. Siêng việc quý giờ, học thêm tiến ích. Chữ nghi ngờ chưa biết rõ, đêm đến khuya vẫn còn xem. Để đọc sách nho, lại ngẫm kinh Phật. Kinh này mới thấy, cảm tựa nhiều đời. Tìm lý ẩn, đào nghĩa cao sâu, chín lần nghĩ, ba hồi xét lại. Nghiên ngẫm nghĩa lý, trau chuốt văn hoa. Muốn hiến lời vàng, giúp cho hậu học. Lạm dùng vằn báo thấy một, dẫn dắt đàn khỉ giận ba (5). Bởi thế, Trẫm viết điều chứa trong lòng, lại thân làm văn chú giải. Tìm lời nhiệm mầu non Thứu-Lĩnh, xét nghĩa uẩn-áo đáy Long-Cung. Vá vào giống hạt bụi trên đường chân-như, giảng ra tựa giọt nước trong nguồn chính-giác. Phát huy ý thâm diệu, khai xiển tông chân-thừa. Khiến người, vừa mở văn xem, liển nhận rõ nghĩa. Phá thành-trì kiên cố tà đảng, làm đội quân mưu lược nghĩa đồ (6). Vọng kiến mênh mang, dần biết quay về sao Bắc-đẩu; đường mê khúc-khuỷu, chợt biết hướng theo kim chỉ-nam. Nguyện vì người học có chỗ nương, mới thấy lòng Trẫm không sẻn tiếc.

Nay Tựa,

* Chú thích:

(1) Hà-Hữu: Rút gọn ở câu "vô hà-hữu chi hương" nghĩa là quê hương nơi không có. Tức nơi tịch diệt vô vi. Trang-Tử nói: "Vô hà hữu chi hương, quảng mạc chi dã". Đó là cái nghĩa không-vô. Tam giới vạn pháp đều không.

(2)Ba nghĩ: Dịch ở chữ Tam-tư. Sách Luận-Ngữ chép: "Tam tư nhi hậu hành", ý nói làm việc gì cũng phải đắn đo, nghĩ đi xét lại nhiều lần rồi mới làm.

(3) Thông tay dẫn về thật tế: Dịch ở câu: "Thùy thủ đạo quy thật-tế", nghĩa là tiếp dẫn về nơi chân thật cứu cánh, tức là về nơi bản-thể của bình đẳng nhất như.

(4) Ba tướng (hữu vi): 1) Tướng sinh.

2) Tướng trụ, dị.

3) Tướng diệt. (a)

a) Ba tướng: Cũng là ba thứ tự-tánh:

i) Biến kế sở chấp tánh,

ii) Y tha khởi tánh,

iii) Viên thành thật tánh.

5) Đàn khỉ giận ba: Dịch ở chữ "Thư chúng nộ tam". Theo điển sách Trang-Tử, Tề-vật-luận chép: Xưa có ông Thư-công (chủ đàn khỉ) chia thức ăn cho khỉ. Ông nói: "Sáng cho ba chiều cho bốn, đàn khỉ đều giận. Lại nói: "Thế sáng cho bốn chiều cho ba, đàn khỉ đều mừng". Sáng 3 chiều 4, sáng 4 chiều 3, số lượng bằng nhau, mà đàn khỉ hoặc giận hoặc mừng. Đó là chúng không biết được nghĩa danh với thật chỉ là một.

(6) Làm đội quân mưu lược nghĩa-đồ: Dịch câu "Tác nghĩa-đồ tôn trở chi sư". Tôn là vò rượu, trở là cái kỷ đựng đồ tế, dĩa đựng thịt, ám chỉ cho yến tiệc. Trong yến tiệc có bàn tính mưu lược, mà phá được định quân ngoài ngàn dặm. Văn bia chùa Đầu-Đà chép: "Cố năng sử tam thập thất phẩm hữu tôn trở chi sư, cửu thập lục chủng vô phiên ly chi cố". Chú rằng: "Nghĩa đồ tinh nhuệ, cố mưu sâu trong yến tiệc". Lại chú rằng: Kinh Đại-Phẩm, tam thập thất phẩm nói: Các phẩm này là yếu chỉ của Phật-Pháp, mà các Tỷ-kheo vâng làm để hàng phục chỗ cố chấp của ngoại đạo. Cũng như Yến-Tử ở Trong bữa tiệc mà ngăn chặn được quân Tấn. Vì Tấn muốn đánh Tề, liền sai sứ sang Tề. Nước Tề đặt tiệc khoản đãi. Trong bữa tiệc, sứ nước Tấn nói vui rằng sẽ làm loạn Tề. Thái-sư Yến-Tử biết ý. Khi sứ Tấn trở về liền bảo: "Nước Tề không thể đánh được". Do đó Tấn lui quân. Khổng-Tử nghe biết liền nói: "Bất xuất tôn trở chi gian, triết-xung thiên lý chi ngoại giả, Yến-Tử chi vị dã", nghĩa là trong bữa yến tiệc mà hay ngăn chặn được quân địch ngoài ngàn dặm, chính Yến-Tử đã làm được vậy.

---o0o---

Vi tính: Việt Dũng

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/06/2014(Xem: 16057)
"Thiền tông Việt Nam luôn là mạch sống tuôn chảy trong lòng Phật giáo và dân tộc suốt từ thế kỷ VI đến nay. Có lúc mạnh mẽ tuôn tràn giữa ngàn hoa đô hội, có lúc len lỏi âm thầm trong núi sâu, rừng thẳm, ung dung thoát tục, khuất tịch tiêu sái. Tuy nhiên, mạch sống Thiền xưa nay vẫn như vậy: Không đến không đi mà là dòng sinh mệnh muôn thuở của những bậc thức tâm đạt bổn.
21/06/2014(Xem: 10404)
Chúng tôi, Nhóm Học Phật chùa Quang Nghiêm, gồm một số thân hữu và những huynh trưởng Gia Đình Phật Tử trong vùng có cơ duyên gần gũi và học hỏi cùng thầy trong nhiều năm qua. Nhân đó, chúng tôi được biết, Thầy là một cây viết thường xuyên trên tập san: THEO DẤU CHÂN XƯA của Phật học viện Huệ Nghiêm, SÀI GÒN trước 1975. Nhưng sau những đợt đốt sách của chính quyền Cộng Sản, THEO DẤU CHÂN XƯA không còn nữa. Càng gần Thầy, chúng tôi nhận thấy những gì Thầy dạy và viết thật thực tế và giản dị trong việc áp dụng Đạo Phật vào đời sống hằng ngày cho chúng ta. Chúng tôi không muốn có sự thất thoát như xưa, nên mạo muội sưu tập một số bài mà Thầy đã viết trong thời gian qua. Đây là một món quà tinh thần của Thầy mà chúng tôi đã rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống hàng ngày. Có một điều quan trọng nữa là bài học thân giáo của Thầy: phong cách hiền hòa và đức độ lan tỏa từ Thầy êm đềm như dòng sông Thu Bồn xứ Quảng. Trong bất cứ lúc nào, nếu có dịp, Thầy thường nhắc nhở: “Học Phật có n
19/06/2014(Xem: 14862)
Hoài bảo một "CÁI MỘNG" trên 25 năm mới hoàn toàn thực hiện Trong lúc du học ở Xuân Kinh(1938), đến mùa hè năm 1941, tôi được dịp may dự thính lớp Giáo Lý của Đoàn Thanh Niên Dục Đức, trong một tháng (mỗi đêm giảng 2 giờ) , do Bác sĩ Lê Đình Thám đảm trách (lớp này hiện nay còn Thượng Toạ Thích Minh Châu và Đạo hữu Võ Đình Cường v.v...) Tôi thích thú quá! Vì thấy bác sĩ đem phương pháp giảng giải của Tây phương mà giải thích, trình bày một triết lý cao siêu của Đông phương. Sự phối hợp cả Âu và Á làm cho người nghe rất thích thú vì hiểu được rằng triết lý cao siêu của Đông phương qua phương pháp trình bày rõ ràng rành mạch của Tây phương. Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
09/06/2014(Xem: 19918)
Một lòng giữ niệm Di Đà, Hồng danh sáu chữ thật là rất cao, Năng trừ tám vạn trần lao, Người đời nên sớm hồi đầu mới hay. Khuyên ai xin chớ mê say, Tịnh tâm niệm Phật việc gì cũng an, Niệm Phật tội nghiệp tiêu tan, Muôn tai ngàn họa khỏi mang vào mình.
08/06/2014(Xem: 7179)
Buổi sáng sớm đầu xuân, tôi theo Scott đi thăm chi hội Phật tử tại nhà tù tiểu bang (Prison Sangha). Từ xa lộ cao tốc hiện đại, lấy lối rẽ vào con đường nhỏ xuyên qua cánh rừng thông cao dày, một nhà tù khổng lồ giữa cánh đồng mênh mông trống vắng sừng sững hiện ra.
08/06/2014(Xem: 20566)
Chữ Đạo, là tiếng Trung Hoa,dịch ra Việt ngữ là con đường.Con đường được có hai loại : Có hình tướng,không hình tướng. Có hình tướng (hữu vi tướng),là đường trên mặt đất như những con đường mòn trên núi, trong làng,đường quốc lộ từ tỉnh này qua tỉnh khác,gọi là đường cái quang. Đường để cho người đi,xe chạy trên đó và đường sắt( xe lửa ).Cũng có đường dưới mặt đất,gọi là địa đạo.Địa đạo có hai loại : đường xe lửa ngầm (Subway) và đường hầm.Những con đường sau đây ,cũng thuộc về hữu tướng;như:đường công danh, đường đời, đường khổ, đường sanh mạng, đường song song, đường chân trời, đường hàng không, đường cùng, đường xích đạo,v.v…Những con đường có tướng cũng có hai: Bằng phẳng và khúc khuỷu, ổ gà, ghồ ghề.
06/06/2014(Xem: 14796)
Đây là quyển sách do chúng tôi biên soạn, gồm những bài viết rời rạc. Mỗi bài, có mỗi đề tài khác nhau. Mục đích là nhằm giúp cho quý liên hữu ở đạo tràng Quang Minh tu học. Những bài viết gồm có: 1. Vài nét về quá trình sinh hoạt Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang Minh Đạo Tràng. 2. Một đạo tràng lý tưởng. 3. Đối chiếu sự dị đồng giữa Ta bà và Cực lạc. 4. Cẩm nang tu tập (đặc biệt dành cho khóa tu ). Những tài liệu nầy trong thời gian qua, chúng tôi đã lần lượt đem ra trình bày hướng dẫn cho đạo tràng tu học. Với thâm ý của chúng tôi, là muốn cho mỗi liên hữu hiểu rõ thêm về đường lối tu tập, cũng như những lễ nghi hành trì cho đúng phương pháp mà Phật Tổ đã chỉ dạy.
06/06/2014(Xem: 26698)
Thơ và Tạp Bút là tập sách mà chúng tôi kết hợp chia làm hai phần: Phần đầu là những bài thơ mà chúng tôi đã sáng tác sau khi tập thơ Hướng Dương ra đời. Phần hai là những bài viết rời rạc qua những chủ đề khác nhau. Chúng tôi kết hợp lại tất cả những bài viết đó để in chung trong tập sách. Chúng tôi đặt danh đề chung cho quyển sách là “Một Cõi Đi Về”. Vì chúng tôi thiết nghĩ, cõi đời có muôn vạn nẻo nhưng lối về nguồn chơn thì chỉ có một. Giống như trăm sông, ngàn suối tuôn chảy mỗi hướng có khác nhau, nhưng tất cả cũng đều chảy chung về biển cả. Nói cách khác, đứng về mặt hiện tượng sự tướng thì vạn pháp có ra muôn ngàn sai khác, nhưng bản thể thì chỉ có một. Đó là ý nghĩa của câu nói: “Vạn vật đồng nhứt thể hay vạn pháp quy nhứt”.
04/06/2014(Xem: 8805)
Hàm Nguyệt Sơn (Hamwolsan), Cốt Quật Tự (骨 窟 寺-Golgulsa Temple), tọa lạc tại số 304, ấp An Đông (An-dong-ri), Thị trấn Dương Bắc (Yangbuk-myeon), Thành phố Khánh Châu (Gyeonguju-si), tỉnh Khánh Thượng Bắc đạo (Gyeongsangbuk-do) thuộc khu đồi Khánh Bắc (Gyeongbuk), cách nội địa biển Đông ba dặm.
04/06/2014(Xem: 10349)
Các bạn chắc đã đọc rất nhiều lời khuyên của các vĩ nhân, có thể thấy chán. Nhưng tôi vẫn muốn viết về một người, là ông Einstein. Ông Einstein là một trường hợp rất đặc biệt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]