Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 16

25/01/201509:08(Xem: 3230)
Quyển 16

ĐẠI VIỆT SỬ THI

(30 quyển)

Chủ đề:  Việt Nam Lịch sử Diễn ca

Tác giả: BS. Hồ Đắc Duy

 

QUYỂN 16

TRỊNH CƯƠNG (1709- 1729 )
 
Năm Kỷ Sửu (1709) theo vâng lệnh chúa
Lấy Trịnh Cương,chắt của Khang vương  
Lên ngôi nối dõi tông đường    
Nắm quyền phủ chúa đảm đương việc triều
 
Phép thuế theo Tô Dung Điện học
Luật thuế này Trung quốc đem sang
Ngõ hầu hạn chế thuế quan  
Hiện không thích hợp mà đang được dùng
 
Ở Đàng Trong chúa sai đo đạc (1711)
Diện tích vùng bãi cát Trường Sa
Đồng Hồ Bố Chính đặt ra
Dùng đo viễn độ khoảng xa lộ trình
 
Xuống lệnh truyền quan viên nội phủ (1711)
Phải du hành đến đó mà xem
Đắp đường tu sửa lẫm kinh
Ngăn ngừa lụt lội dân sinh thế nào
 
Ba năm sau,tháng hai Giáp Ngọ (1714)
Vua Nặc Yên xứ nọ Đàng Trong
Xin quân cứu viện vì không
Đủ phương chống trả rất mong cứu nàn
 
Thợ khắc làng Liễu Chàng dâng sách
Dâng cho chúa kiệt tác bấy giờ
Một của Tuệ Tỉnh thiền sư
Viết về y lý dùng cho các thầy
 
Ông là người Nghĩa Lưu Dạ Cẩm
Được nhà sư ở Cẩm Sơn nuôi
Thi Đình , Hoàng Giáp đổ ngay
Về sau đi sứ bị người giữ luôn
 
Chúa Trịnh Cương thu hồi ván sách (1718)
Sợ kẻ thù reo rắc nội dung
Chống người phủ chúa và cùng
Tham quan ô lại bên trong chính quyền
 
Chúa lại truyền chuyển ba phiên cố
Rút hết quyền sáu bộ bên cung
Để vua hư vị ngồi không
Quyền thì phủ chúa gom chung hết rồi
 
Đổi niên hiệu là đời Thái Bảo (1720)
Đánh thuế đồng,thuế muối,bán buôn
Công ty Đông Ấn tạm ngưng
Triệu hồi toàn bộ khỏi vùng Nghệ An
 
Chúa Trịnh Cương đề ra nguyên tắc
Thì chi thu đảo ngược kịp thời
Định ra lễ phục hẳn hoi
Hủy ngay điều luật chặt tay bấy giờ (1721)
 
Chiếu truyền cho kiểm tra dân số (1723)
Những di dân các hộ ven sông
Ba năm kiểm lại cho xong
Quỹ riêng trường học ruộng công để dành
 
Truyền nộp nhanh bản đồ thủy lợi (1725)
Của mỗi vùng để đợi chỉnh tu
Khơi thông , dẫn thủy , đào hồ
Vét sông tắt nghẽn , đắp bờ lên cao
 
Để chặn đứng cường hào ác bá
Vạch trần ra bè lũ tham ô
Vua cho yết bảng bây giờ
Ơ nơi công cộng để cho dân bàn

(Tiếp theo) QUYỂN 16  

LÊ DUY PHƯỜNG HOÀNG ĐẾ  (1729- 1732)
 
Phủ chúa Trịnh muốn thay ngôi đế
Bảo quần thần bàn ép Dụ Tông
Nhường ngôi lui ở trong cung
Duy Phường lên thế để cùng Trịnh Cương
 
Ơ miền Nam Nguyễn vương mở rộng (1697)
Bình Thuận miền đất trống phía Tây
Phan Rang, Phan Rí thu ngay
Lại thêm Đông Phố lựa ngày phân ra
 
Phủ Gia Định :Hòa Đa, An Phúc
Xứ Đồng Nai đóng cột chia vùng
Tân Bình lấy xứ Sài Gòn
Dựng dinh Phiên Trấn coi chung vùng này
 
Năm At Tỵ (1725) chẳng may tạ thế
Nguyễn Phúc Chu được kể lắm con
Cháu chắt nội ngoại đích tôn
Con hơn trăm rưởi , vợ hơn chục bà


NGUYỄN PHÚC CHÚ (1725-1738)
 
Nguyễn phúc Chú con bà vợ cả
Lên ngôi vương lúc đã ba mươi
Đặt ra quan hệ nước ngoài
Tổ chức thi cử nhân tài lựa ra
 
Đặt ra khoa dành cho môn toán
Ở Đàng Ngoài có khoảng trăm ba
Lại cho thi tuyển chuyên khoa
Chọn người giỏi võ lập ra môn này
 
Cấm ngoại quốc đào khai kim loại  
Khu mỏ đồng khai thác của ta
Báo cho vua nước Trung Hoa  
Phải đem trả lại gọi muốn mà kết thân
TRỊNH GIANG (1729- 1740 )
 
Năm Kỷ Dậu (1729) Trịnh Cương tạ thế
Lấy Trịnh Giang lên kế ngôi vương
Một người tư cách tầm thường
Khó lòng trị nước cầm cương giữ gìn

i](Tiếp theo) [/i] QUYỂN 16  

LÊ THUẦN TÔNG HOÀNG ĐẾ (1732- 1735)  
 
Khi Trịnh Giang cầm quyền phủ chúa
Đưa Duy Tường lên kế ngôi vua
Thuần Tông đế hiệu bấy giờ
Long Đức niên kỷ kể từ hôm nay
 
Trịnh Giang người ưa điều quái dị  
Lại là người rất dễ gièm pha
Tính tình nhiễm thói ba hoa  
Áo quần diêm dúa xa hoa vào mình  
 
Cũng viết câu, phê bình văn sách
Cũng xây chùa, cung thất xa hoa  
An chơi nhiều thói trăng hoa  
Cưởng dâm cung nữ của cha chẳng chừa

(Tiếp theo) QUYỂN 16

LÊ Ý TÔNG HOÀNG ĐẾ  (1753- 1740)
 
Thế ngai vua, đưa ngay Duy Thận
Giử ngôi cao cán đáng việc triều
Ý Tông vâng lệnh nghe theo
Là con cháu ngoại được yêu bấy giờ
 
Thù, giết vua , làm điều quái đản
Sét đánh cho, sau loạn tâm thần
Triều đình quyết định năm Thân(1740)
Trịnh Doanh được chọn thế chân cầm quyền
 
Ở đàng ngoài nhiều miền thay đổi
Tân Mĩ vùng Đông Phố đất ta
Từ Châu Định Viễn lập ra(1732)
Long Hồ Dinh trấn hiện là Cửu Long
 
Ở Đàng Trong quốc vương Chân Lạp
Cất quân vào đàn áp Hòa Đa  
Vĩnh Phúc chúa phái đem ra
Quân binh đánh chúng, đuổi xa khỏi thành
 
Ở Đàng Ngoài tiến hành soạn quyển  
Sách "Quốc triều hội điển" vừa xong (1731)
Tức Uông tạo sĩ bách cung
Làm pho binh pháp để dùng trong quân
 
Sai nha quan tìm mua sách cũ (1731)
Sửa lại kho Tích Cổ Tàng Thơ
Ngũ Kinh in mới dâng vua
Tứ Thư Chư Sử dạy cho học trò (1734)
 
Lại y theo đồng hồ ngoại quốc (1733)
Nguyễn Văn Tư bắt chước làm ra
Tự cung trong nước để mà
Đặt nơi dinh trấn dân ta coi giờ
 
Chúa Nguyễn cho con trai Mạc Cửu (1736)
Làm Đô Đốc trấn giữ Hà Tiên
Một tay nổi tiếng chiêu hiền
Lập Chiêu Anh Các giao duyên tao đàn
 
Trịnh Giang bệnh :tâm thần phân liệt  
Làm dân lành bao xiết khổ đau
Nhiều nơi lắm kẻ cầm đầu  
Dấy lên nổi loạn chia nhau cát quyền


TRỊNH DOANH (1740- 1767)
 
Chúa Trịnh Giang trao quyền nhiếp chính
Cho Trịnh Doanh quyết định mọi điều  
Đầu tiên từ bọn quan liêu
Giết ngay Công Phụ và nhiều kẻ gian
 
Truyền quan quân lên đường dẹp loạn
Tuyển ưu binh lực lưỡng dễ dùng  
Trưng thu đến cả hồng chung
Để đúc binh khí kiếm cung tàu thuyền (1740)

(Tiếp theo) QUYỂN 16

LÊ HIỄN TÔNG HOÀNG ĐẾ ( 1740- 1786)
 
Lê Duy Niên được nhường ngôi đế
Vì Trịnh Doanh muốn thế Ý Tông
Vời ngay thái tử đông cung
Trở về nhận lảnh trung hưng mối giềng
 
Dân Đàng Ngoài triền miên thiếu đói (1730,1735,1740)  
Ruộng bỏ hoang đồng cỏ xác xơ
Thiên tai, dịch bệnh bấy giờ
Nhiều năm hạn lụt mất trơ mùa màng
 
Số giáo dân bao gồm cả nước (1737)
Đến bây giờ kiểm được xong xuôi
Hai trăm năm chục ngàn người
Nhà thờ giáo sứ nhiều nơi cát quyền
 
Cả hai miền đều cho cấm đạo (1737)
Sợ gây mầm khuynh đảo trong dân
Truyền cho giáo sĩ ngoại nhân
Phải ra khỏi nước không cần lệnh vua
 
Nhà sư tên Dương Hưng khởi nghĩa  
Ở Tam Đảo và giữ một vùng
Lại thêm tù trưởng Quách Công
Chiếm vùng Lạc Thổ vẫy vùng một phương  
 
Người nhà Lê thân vương tôn thất
Họp lại cùng Duy Mật hưng binh (1738)
Mong làm đảo ngược tình hình
Tấn công đốt phá kinh thành tan hoang
 
Mưu bị lộ tìm đường chốn thoát
Vì nghĩa binh khinh thất coi thường
Nên nhiều người đã chết oan
Bị quân họ Trịnh dẹp tan tức thì
 
Lê Duy Mật chạy về Thanh Hóa (1740)
Cùng nông dân đã hóa vùng này
Thành nơi dựng trại , tuyển nguời
Dân binh gia nhập mỗi ngày một đông
 
Khi tiến công khi vây Phúc Lộc  
Vượt sông Đà đánh thốc sông Thao
Lôi Dương ngấp nghé tiến vào
Ngọc Lâu còn dấu chiến hào thân vương
 
Thành Trình Quan ba mươi năm ấy
Nét oai hùng còn thấy về sau
Bị quân phản bội bắc cầu
Ong đành tự vẫn tránh vào tay quân (1770)
 
Ơ Đàng Ngoài nhân dân chống lại
Bọn kiêu binh và lũ tham tàn (1741)
Công Chất cát cứ Sơn Nam (1739)
Tuyển, Cừ, Trác, Oánh chiếm đàng Hải Dương (1741)
 
Ơ Bắc Phương dư đồ nhà Mạc (1744)
Chiếm Cao Bằng, Hưng Hóa, Tuyên, Quang
Ngân Gia lại có Đình Dung (1740)
Tế Bồng thủ lĩnh chiếm vùng Sơn Tây
 
Nguyễn Hữu Cầu cho xây dinh trại (1742)
Kiểm soát miền duyên hải Đồ Sơn
Ngũ Phúc tướng Trịnh bị dồn (1744)
Bị quân vây hãm cuống cuồng lo âu
 
Nguyễn Danh Phương cầm đầu lực lượng (1744)
Mười vạn quân cả tướng và binh
Lấy vùng Thanh Lãng xây thành
Cuối cùng bị bắt tử hình nơi đây
 
Nguyễn Phúc Chu trên ngai phủ chúa
Ơ Đàng Trong hơn được mười năm
Giữa năm Mậu Ngo (1738) thì băng
Khoát lên nối nghiệp đăng quan lúc này
 
NGUYỄN PHÚC KHOÁT  
(1738- 1756)
 
Nguyễn Phúc Khoát xuống ngay chiếu chỉ  
Lập lễ đài ở Huế đăng quang
Sai người đúc ấn Quốc Vương
Đặt ra triều phục , kỷ cương khi chầu
 
Xây kinh đô, điền đài, cung điện
Gác Dao Trì nội viện Triều Dương
Thuyền rồng đậu ở sông Hương
Cái quan đắp rộng dể dàng cho dân
 
Ơ trấn Biên có quân tạo phản (1747)
Chúa Nguyễn sai dẹp loạn thật nhanh
Được tin giặc cỏ Long Xuyên
Vua sai cai đội đem thuyền đi ngay
 
Lại xuống chiếu chọn ngày đúc súng (1747)
Làm thêm tiền kẽm cứng lưu thông
Cộng chung với cả tiền đồng
Định ra luật lệ tiêu dùng dễ phân
 
Năm Giáp Tuất (1754) đem quân tiến đánh
Đuổi Chân lạp đến tận Nam Vang
Nặc Nguyên dâng biểu đầu hàng (1755)
Từ nay thần phục xin làm phiên vương  
 
Dưới thời này văn chương kiệt xuất  
Nhiều thi thơ trước thuật tài tình  
Nguyễn Kiều một thuở lưu danh  
Sử Hoa Tùng Vịnh để dành người xem
 
Chinh phụ ngâm chuyện tình cay đắng
Bảng hán văn của Đặng Trần Côn
Bà Đoàn diễn lại thơ Nôm
Văn chương man mác nỗi buồn phu thê
 
Là tác phẩm thiên về nghệ thuật
Một áng thơ tuyệt tác bấy giờ
Nghe qua não nuột tựa hồ
Xót xa vạn dặm mờ mờ đau thương

(Tiếp theo) QUYỂN 16

TRỊNH SÂM ( 1767- 1782)
 
Ở Đàng Ngoài Trịnh Sâm nguyên soái
Được tiến phong lên nối ngôi vương
Đổi ngay triều nội kỷ cương
Không theo pháp cũ triều đường khi xưa
 
Chúa Trịnh Sâm thay vua quyết đoán
Đã một lần làm tướng xuất quân
Đã từng chiếm lấy Phú Xuân
Đuổi quân chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Nam
 
Lê Quí Đôn một người tài lực (1752)
Để lại đời Tiểu Lục Kiến văn
Lê Triều Thông Sử trăm trang
Một nhà bác học thuộc hàng quán quân
 
Đất Hải Dương có Lê Hữu Trác (1724)
Là một người uyên bác y khoa
Y Tông Tâm Lĩnh viết ra
Vệ sinh yêu quyết thật là ích dân
 
Làng Đan Loan có Phạm Đình Hổ (1768)
Chuyên tâm vào nghiên cứu điễn văn
Vũ Trung tùy bút, Tang Thương
An Nam Chí Lược trăm trang để đời  
 
Từ Tân Dậu (1741) kéo dài cho tới
Năm Đinh Hợi (1767) cả ở hai miền
Có nhiều sự kiện khó quên  
Khoát mất, Thuần thế, Trịnh Sâm đang ngoài


NGUYỄN PHÚC THUẦN  (1765- 1777)
 
Nguyễn Phúc Thuần nối ngôi nghiệp chúa
Trương Phúc Loan lấn cả quyền hành
Trong triều có Nguyễn Cư Trinh
Cũng không ngăn được tình hình rối ren
 
Trương Phúc Loan lấy quyền Quốc Phó (1765)
Xem triều đình chẳng có một ai
Chuyên quyền lại giết người ngay
Tóm thâu công việc trong ngoài vào tay
 
Ơ Đàng Ngoài Trịnh doanh bố cáo (1754)
Cấm người Au truyền đạo Gia Tô (1746)
Cấm người Trung Quốc bấy giờ
Lim, Trắc gỗ quý không cho đem về
 
Ơ hai miền dân quê ly tán
Bởi mất mùa, lụt hạn triền miên
Gian manh làm giả bạc tiền
Khiến cho mất giá dân thêm đói nghèo
 
Biển Hà Tiên có nhiều hải sản
Lắm ghe thuyền lai vãn mưu sinh
Ngư dân ngoại quốc cố tình
Đánh bắt tôm cá nước mình mang đi
 
Việc trấn thủ lắm khi quá yếu (1758)
Muốn tuần tra lại thiếu chiến thuyền
Cuối năm bảy mốt vua Xiêm (1771)
Cất quân đánh chiếm Hà Tiên mấy ngày
 
Mạc Thiên Tứ sai người dụ địch
Tống Phước Hiệp đột kích sau lưng
Dồn quân giặc cướp tới cùng
Vượt qua biên giới tấn công mới về
 
Vua Xiêm bèn gửi ngay sứ giả
Sang cầu hòa vì đã bộigiao
Hứa rằng nay trở về sau
Có gì xích mích cùng nhau nghị bàn
 
Vùng Hội An thuyền buôn tấp nập
Tàu nước Anh, Pháp, Nhật, Java
Thuế quan thâu vốn được là
Ba mươi ngàn lẻ tiền đà nhập kho
 
Tiền thu vô Phúc Loan chiếm đoạt
Thuế mười phần chỉ được một hai  
Chuyên quyền Loan lại tác oai  
Nhân dân đói khổ không ai không thù
 
Đồng bỏ hoang , ruộng khô cỏ cháy
Có nhiều làng chẳng thấy luỹ tre
Nhân dân đói khổ não nề
Nhiễu nhương trộm cướp lắm bề tang thương
 
Trước bối cảnh thê lương đổ nát
Đất Tây Sơn Nguyễn Nhạc hưng binh
Nêu cao danh nghĩa của mình
Loạn thần phải diệt, dành quyền về dân
 
Vào tháng tám nghĩa quân chiếm cứ (1773)
Ở Quy Nhơn , tuần phủ Đắc Tuyên
Vội vàng tháo chạy xuống thuyền
Dong buồm trốn thẳng ra miền Hóa Châu
 
Binh Tây Sơn thọc sâu vào chiếm (1773)
Đánh mạnh vào cứ điểm Bình Khang
Rồi cho áp sát phía Nam
Lấy vùng Bình Thuận như tằm ăn dâu
 
Quân chúa Nguyễn hai đầu bị ép (1774)
Bị cắt đường khó tiếp tế nhau
Lại thêm lính tráng ốm đau
Phúc Thuần ra lệnh rút vào Trấn Biên (1775)
 
Thấy Đàng Trong khắp miền nộichiến
Chúa Trịnh Sâm hạ lệnh động binh (1774)
Hành quân Chúa tự thân chinh
Giương cờ Nam tiến nắm quyền chỉ huy
 
Hoàng Ngũ Phúc sai đi tiền trạm
Vượt sông Gianh vây hãm Phú Xuân
Vợ con gia quyến Phúc Thuần
Dắt dìu bồng bế tránh quân Đàng Ngoài
 
Thành Phú Xuân lọt tay Chúa Trịnh
Nguyễn Phúc Thuần chạy lánh vào Nam
Để con trấn ở Quảng Nam
Bị Tây Sơn đuổi bắt làm con tin
 
Phe Tây Sơn dưới quyền Nguyễn Nhạc (1775)
Cùng Lập Đình ngầm ước với nhau
Cẩm Sơn buộc Trịnh đối đầu
Giao tranh mấy trận tiến vào Phú Xuân
 
Đổi sách lược với quân Lê -Trịnh
Tạm nghị hòa để tránh giao tranh
Tây Sơn đoán trước tình hình
Đương đầu Trịnh –Nguyễn khó giành phần hơn (1775)
 
Trịnh phong Nhạc: Tây Sơn hiệu trưởng
Trấn giữ vùng đất Quảng trở vô
Lữ-Huệ, Nhạc lại giao cho (1775)
Coi quân giữ đất kể từ Phú Yên
 
Nguyễn Khoa Kiên bị Huệ bắt sống
Sự kiện này rúng động ba quân
Đại binh chúa Nguyễn lần lần
Nếm mùi thất bại rút dần vào Nam
 
Ở Quảng Nam xẩy ra dịch bệnh (1775)
Phía Trịnh quân binh lính chết nhiều
Ngũ Phúc không dám đánh liều
Rút lui ra khỏi chân đèo Hải Vân
 
Tôn Thất Xuân mộ quân chiếm lại (1775)
Vùng đất mà Trịnh phải buông tay
Quân Xuân giữ được mấy ngày
Bị binh Nguyễn Nhạc đuổi ngay khỏi thành
 
Năm Bính thân (1776) Tây Sơn thừa thắng
Chiếm Long Hồ, đánh thẳng Trấn Biên
Lấy Sài Gòn, rồi lại đem
Quân vào Gia Định trăm thuyền trịch thu
 
Quân Tây Sơn dưới cờ Nguyễn Lữ
Vỗ yên dân , cắt cử nha quan
Thu gom khí giới kho tàng
Kiểm kê tài sản sai mang đem về
 
Triều đình Lê-Trịnh dần suy yếu
Gặp thiên tai lại thiếu tài nguyên
Mặc cho Nguyễn Nhạc lấn quyền
Tóm thâu lãnh thổ nguyên miền Đàng Trong

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/04/2017(Xem: 6532)
Sáng nay, mồng 10/03/Đinh Dậu (06/04/2017), UBND tỉnh Khánh Hòa đã tổ chức lễ giỗ Đức Quốc tổ Hùng Vương tại đền Hùng Vương (số 173 đường Ngô Gia Tự, phường Tân Lập, TP.Nha Trang).
27/03/2017(Xem: 6377)
"GS. Cao Huy Thuần được biết đến là một trong những nhà hoạt động văn hóa - giáo dục có uy tín nhất không chỉ tại Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Đặc biệt, ở vị giáo sư đang sinh sống và giảng dạy tại trường Đại học Picardie (Pháp), là một tâm hồn mang đậm âm hưởng Phật giáo, một tôn giáo mà với ông là thần hồn của dân tộc, là điểm tựa để con người sống đúng nghĩa là con người."
09/01/2017(Xem: 8845)
Châm là một thủ thuật điều trị bệnh bằng cách dùng các vật nhọn châm vào huyệt vị trên cơ thể bệnh nhân. Thời thượng cổ thầy thuốc dùng đá nhọn để châm gọi là thạch châm về sau có sự cải tiến, kim châm được làm từ xương, từ đồng rồi sắt, sau đó là vàng hay bạc đến nay là thép không gỉ. Về nguồn gốc phát sinh kỹ thuật châm, sách “Hoàng đế Nội kinh”, thánh thư của Đông y, Thiên mười hai “Dị pháp, phương nghi luận” cho biết: “Nam phương là một khu vực trưởng dưỡng của trời, đất, dương khí ở nơi đó rất thịnh. Đất ở đó thấp và thủy thổ ẩm ướt, thường tụ nhiều sa mù, mốc. Người sinh nơi đó ưa ăn vị chua và các thức ướp, tạng người thớ thịt mịn đặc và hiện sắc đỏ, phần nhiều mắc bệnh loạn tý. Về phép trị, nên dùng “vi châm”. Cho nên “cửu châm” (chín loại châm) cũng đến từ gốc phương Nam”.
07/09/2016(Xem: 16171)
Vào năm 2003 khi thảo Vạn Hữu Trường Ca được nửa chừng, bèn nghĩ có lẽ dừng lại để sau này sẽ tiếp để đi vào Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trước, và mọi thể dạng mang sắc thái tình tự, dân tộc, quê hương, nhân sinh, mọi ngõ ngách cuộc đời và nhân thế, các sự kiện diễn ra, nghe tiếng kêu đồng loại,... đã hơn 34 năm qua, dĩ nhiên là văn vần, còn văn xuôi thì ít bởi ít khả năng vốn liếng thiên tư. Đến nay đã gần 1,700 bài khác nhau (một ngàn bảy trăm). Hai tuần trước chợt nhớ Vạn Hữu Trường Ca còn dang dở, dành vài ngày đi nốt và hoàn tất.
20/08/2016(Xem: 6094)
Hồn Nước là danh từ kép rất đa dạng, cho nên trước khi nói về Hồn Nước, ta phải nói đến chữ Hồn. Hồn, là danh từ đơn, để chỉ cho sức mạnh tinh thần, cái biết nhạy cảm của tâm ý con người trong đời sống vật chất thường nhật, tất cả do tâm chỉ đạo hành động mọi việc, do đó mới có ra danh từ kép “linh hồn”. Kể cả muôn loài thú lớn, nhỏ cũng có cái Hồn nhưng, thấp hơn loài người. Hồn cấp thấp này, được chia ra hai thứ Hồn : Sinh hồn và Giác hồn. Sinh hồn, là của những loài vật nhỏ như các loài kiến, ong, bướm, sâu bọ v.v… Giác hồn, là của những loài vật lớn như các loài cọp, voi, khỉ đột, chó, chim muôn v.v…Chúng có tâm biết tìm kiếm thức ăn cho bản thân và bảo vệ mạng sống. Hai loài Khỉ và Chó có tâm biết rất tinh khôn hơn các loài thú bốn chân, nhất là Chó biết phân biệt chủ của nó và người lạ, liền sủa, tấn công. Con khỉ biết hái dừa, đập v
22/07/2016(Xem: 4332)
Lịch sử không thường lặp lại, nhưng khi đã lặp lại thì có nhiều chuyện kỳ thú khiến ta không thể không lưu tâm. Đầu thế kỷ XI, thời nhà Lý, lịch sử Việt nam đã từng có một cuộc tình thơ mộng giữa vì vua đang ngự trị với một cô thôn nữ hái dâu, nuôi tằm, dệt lụa, đó là Lý Thánh Tông với Ỷ Lan. Sáu trăm năm sau lịch sử Việt nam lại ghi tiếp một mối tình khác cũng thơ mộng không kém giữa chàng công tử con nhà Chúa: Nguyễn Phúc Lan với cô thôn nữ cũng theo nghề hái dâu, ươm tơ, dệt lụa: Đoàn thị Ngọc vào đầu thế kỷ XVII, dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.
20/01/2016(Xem: 6495)
Nay chúng lại lợi dụng sự “hợp tác toàn diện Việt Trung” đã hành động một cách ngang tàn, hống hách, xua quân lấn chiếm Hoàng sa, Trường sa, tung hoành, ngang ngược lãnh hải Việt nam. Ngư dân ta đã phải ngậm đắng nuốt cay, trước hành động bắn giết, cướp giựt tài sản đánh bắt của đồng bào ta khắp ven biển các tỉnh miền Trung như: Quảng Nam, Quảng ngãi, Bình Định, Phú Yên, Nha Trang v.v… Đúng là bọn hải tặc, khủng bố Trung quốc đang hoành hành trên đất nước ta. Chẳng những thế, mà vùng cao nguyên Việt nam, nơi vị trí tối quan trong như nóc nhà của đất nước, mà chúng đã xua quân, ký kết với đảng Cộng sản Việt nam, khai thác Bauxit, phá hoại môi sinh, cướp đất, đuổi nhà dân chúng ở Lâm Đồng, sẽ tiến tới chiếm trọn cao nguyên Trung phần Việt nam, sau khi thôn tính vùng cao nguyên Bắc Việt, Chúng sẽ khai thác nhiều quặn khác như vàng, chì, kẽm, đồng, v.v…tài nguyên quốc gia không khỏi qua tay bọn thổ phỉ Trung quốc.
06/01/2016(Xem: 16776)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
18/12/2015(Xem: 13161)
Mười năm kháng chiến chống quân Minh Lê Lợi khởi nghĩa đất Lam Sơn Anh hùng áo vải nêu chí khí Toàn dân hợp lực cứu núi sông
18/12/2015(Xem: 11631)
Bạch Đằng giang xóa tan ngàn năm Bắc thuộc Vua Ngô Quyền xây dựng thiết lập triều ca Tiếp ngàn xưa bao đời lịch sử Ông Cha Nối ngàn sau Việt Nam non nước một nhà
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567