Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 19

25/01/201509:11(Xem: 3162)
Quyển 19

ĐẠI VIỆT SỬ THI

(30 quyển)

Chủ đề:  Việt Nam Lịch sử Diễn ca

Tác giả: BS. Hồ Đắc Duy

 

 

QUYỂN 19

CẢNH THỊNH HOÀNG ĐẾ (1792- 1802)
 
Nguyễn Quang Toản mới vừa mười tám  
Thế ngôi cha vào buổi đầu thu
Hiệu là Cảnh Thịnh bấy giờ
Phong Tuyên vào chức Thái sư giúp mình
 
Từ trong thành cũng như ngoài nội
Bọn quan thần cứ mãi tranh nhau
Triều đình vua lại phó giao
Vào tay kẻ xấu sàm tâu người hiền
 
Năm Quý Sửu (1793) Phú Yên bị chiếm
Quân Nguyễn Ánh uy hiếp Quy Nhơn
Nhạc xin cầu viện Phú Xuân
Toản cho Văn Sở đem quân cứu thành
 
Quân Tây Sơn đại binh vừa đến
Lượng thế mình, chúa Nguyễn rút lui
Mặc Ngô Văn Sở ra tay
Thư binh đồ giáp cho người kiểm kê
 
Phe Quang Toản thu về vũ khí
Lấy binh phù ấn chỉ của vua
Trung ương hoàng đế chịu thua
Quyền hành mất hết sống thừa mà thôi
 
Vua Nguyễn Nhạc ra người thất thế
Giận cháu mình thổ huyết chết ngay
Toản đưa Nguyễn Bảo lên thay
Cấp thêm bổng lộc từ rày về sau
 
Quan tư khấu chặt đầu giám quốc (1794)
Giết chết rồi báo trước nhân dân
Rồi thêm những kẻ gian thần
Sẽ chung số phận như quân cậy quyền
 
Triều Tây Sơn ngả nghiêng từ đó
Cả triều đình một lũ tham ô
Trong khi chúa Nguyễn mưu đồ
Dàn quân đánh chiếm tóm thu dần dần
 
Năm Giáp Dần quân hơn bốn vạn (1794)
Nguyễn Tây Sơn chiếm trấn Phú Yên
Chu Lai cứ điểm giữa miền
Chận đường tiếp vận liên miên công thành
 
Quân Nguyễn Vương về thành Gia Định
Tôn Thất Hội , Diên Khánh coi quân
Trữ thêm thóc lúa lúc cần
Tây Sơn lủng củng dần dần lui binh
 
Quân chúa Nguyễn tình hình thắng thế (1796)
Đóng chiến thuyền thủy kế bày ra
Sắm thêm vũ khí phòng xa
Mua sách ngoại quốc khảo tra để dùng
 
Đúc tiền đồng Gia Hưng Thông Bảo (1796)
Hội đồng thi phác thảo lại ngay
Mộ binh huấn luyện thật hay
Lấy bài nhân nghĩa dạy bày ba quân

Năm Đinh Tỵ (1797)sau lần thất bại
Thề trận này lấy lại Quy Nhơn
Thân chinh Nguyễn Ánh cùng con
Đem trăm thuyền chiến dong buồm ra khơi
 
Vừa đến nơi tính không thắng được
Chúa cho thuyền ra tuốt Quảng Nam
Đông Cung -Võ Tánh ước ngầm
Qua đêm tiến chiếm bất thần tấn công
 
Lượng sức mình thắng không giữ được
Bèn thu quân về trước lúc suy
Nguyễn Văn Thành , truyền cho đi
Trấn miền Diên Khánh chỉ huy vùng này
 
Khi Xiêm quốc vào tay quân Miến  
Ánh cho người cứu viện sang ngay
Đức, Trương hai tướng được ngài
Phái đem lính thủy đêm ngày hành quân
 
Thành Diên Khánh ,Trần Thường trấn giữ
Vương xuống lệnh đề cử Đông Cung
Lấy Bá Đa Lộc tháp tùng
Thái, Phúc tùy tướng sẽ cùng công du
 
Được biểu tâu của con Nguyễn Nhạc
Xin về hàng để được yên thân
Bởi vì lắm kẻ gian thần
Muốn xâm chiếm đoạt lấy phần đất chia
 
Ánh liền sai quân đi thôn tính (1779)
Lần ba này chiếm lĩnh Quy Nhơn
Công thành vây hãm Tây Sơn
Quy Nhơn thất thủ bắt hơn vạn người
 
Cho đổi ngay thành tên Bình Định
Xuống chiếu khen tướng lĩnh binh dân
Tùng Châu, Võ Tánh dự phần
Giữ thành Bình Định coi quân đề phòng
 
Quân Tây Sơn với trăm thuyền chiến
Đem đại binh tái chiếm Quy Nhơn (1800)
Cắt đường tiếp liệu quan sơn
Chín mươi căn cứ lập đồn chung quanh
 
Trần Quang Diệu vây thành Bình Định
Võ văn Dũng đánh tỉnh Phú Yên
Chắn ngang Thị Nại bằng thuyền
Làm cho quân Nguyễn trong thành hết lương
 
Năm Tân Dậu (1801) mấy lần cứu viện
Mong làm sao xoay chuyển tình hình
Cuối cùng Võ Tánh quyên sinh
Trên lầu bát giác đốt mình tự thiêu
 
Trong khi đó binh triều Nguyễn Ánh
Lại đổi đuờng không đến Phú Yên
Xoay qua một thế gọng kềm
Tấn công vào Huế, đổ thêm quân vào

Ngày Mậu Dần, Ánh vào tới Huế (1801)
Cảnh Thịnh bèn lựa thế rút lui
Trung du dựng trại tạm thời
Chiêu quân định kế nay mai phục thù
 
Ở Kinh đô, Vương ban chiếu dụ
Niêm kho tàng an vỗ nhân tâm
Tịch biên tài sản bại quân
Cấm binh nhiễu hại lương dân trong thành
 
Vương thân hành coi nơi cung khuyết
Thu được ấn truyền quốc Tây Sơn
Xem qua danh mục kho tàng
Tịch thu khí giới quân trang chiến thuyền
 
Thù bất cộng đái thiên chưa trả
Nay sai người đào mả Quang Trung
Nghiền xương của vị anh hùng
Đầu lâu giam ngục thỏa lòng thù xưa
 
Xuống chiếu cho những ai trong nước
Vì sa cơ lỡ bước lầm đường
Có tài thì vẫn được Vương
Xét xem bổ dụng làm quan tân triều
 
Giữa Phú Xuân cho khao quân sĩ
Rồi Gia Long chỉ thị như sau :
Quy Nhơn cử Duyệt trở vào
Trương,Thường trấn giữ địa đầu sông Gianh
 
Chu Viên đứng đầu ngành nghiêm túc
Biên tập ra Cương Mục Chánh Biên
Ghi rành sự kiện từng niên
Từ khi Nguyễn Ánh sinh tiền đến nay
 
Triều Tây Sơn trước đây chỉnh lý
Cho phát hành Sử Ký Tiền Biên
Mà Ngô Thời Nhiệm được xem
Là người chủ chốt chỉnh biên sách này
 
Ở phuơng Tây mấy tay người Pháp
Theo Đông cung đi gấp trở về
Chaigneau với lại Vannier
Được phong chánh đội sai đi hộ phòng
 
Đối các bậc văn phong học sĩ
Như La Sơn Phu Tử Đại Nhân
Nếu không cộng tác dự phần
Thì cho hưu trí an thân dưỡng già
 
Ông Chaigneau đem qua Toán thuật
Viết về môn tính xuất phương Tây
Để vua tham khảo nhân đây
"Minh chỉ thiên yếu" luận bày cân phân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/04/2017(Xem: 6532)
Sáng nay, mồng 10/03/Đinh Dậu (06/04/2017), UBND tỉnh Khánh Hòa đã tổ chức lễ giỗ Đức Quốc tổ Hùng Vương tại đền Hùng Vương (số 173 đường Ngô Gia Tự, phường Tân Lập, TP.Nha Trang).
27/03/2017(Xem: 6376)
"GS. Cao Huy Thuần được biết đến là một trong những nhà hoạt động văn hóa - giáo dục có uy tín nhất không chỉ tại Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Đặc biệt, ở vị giáo sư đang sinh sống và giảng dạy tại trường Đại học Picardie (Pháp), là một tâm hồn mang đậm âm hưởng Phật giáo, một tôn giáo mà với ông là thần hồn của dân tộc, là điểm tựa để con người sống đúng nghĩa là con người."
09/01/2017(Xem: 8843)
Châm là một thủ thuật điều trị bệnh bằng cách dùng các vật nhọn châm vào huyệt vị trên cơ thể bệnh nhân. Thời thượng cổ thầy thuốc dùng đá nhọn để châm gọi là thạch châm về sau có sự cải tiến, kim châm được làm từ xương, từ đồng rồi sắt, sau đó là vàng hay bạc đến nay là thép không gỉ. Về nguồn gốc phát sinh kỹ thuật châm, sách “Hoàng đế Nội kinh”, thánh thư của Đông y, Thiên mười hai “Dị pháp, phương nghi luận” cho biết: “Nam phương là một khu vực trưởng dưỡng của trời, đất, dương khí ở nơi đó rất thịnh. Đất ở đó thấp và thủy thổ ẩm ướt, thường tụ nhiều sa mù, mốc. Người sinh nơi đó ưa ăn vị chua và các thức ướp, tạng người thớ thịt mịn đặc và hiện sắc đỏ, phần nhiều mắc bệnh loạn tý. Về phép trị, nên dùng “vi châm”. Cho nên “cửu châm” (chín loại châm) cũng đến từ gốc phương Nam”.
07/09/2016(Xem: 16164)
Vào năm 2003 khi thảo Vạn Hữu Trường Ca được nửa chừng, bèn nghĩ có lẽ dừng lại để sau này sẽ tiếp để đi vào Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trước, và mọi thể dạng mang sắc thái tình tự, dân tộc, quê hương, nhân sinh, mọi ngõ ngách cuộc đời và nhân thế, các sự kiện diễn ra, nghe tiếng kêu đồng loại,... đã hơn 34 năm qua, dĩ nhiên là văn vần, còn văn xuôi thì ít bởi ít khả năng vốn liếng thiên tư. Đến nay đã gần 1,700 bài khác nhau (một ngàn bảy trăm). Hai tuần trước chợt nhớ Vạn Hữu Trường Ca còn dang dở, dành vài ngày đi nốt và hoàn tất.
20/08/2016(Xem: 6094)
Hồn Nước là danh từ kép rất đa dạng, cho nên trước khi nói về Hồn Nước, ta phải nói đến chữ Hồn. Hồn, là danh từ đơn, để chỉ cho sức mạnh tinh thần, cái biết nhạy cảm của tâm ý con người trong đời sống vật chất thường nhật, tất cả do tâm chỉ đạo hành động mọi việc, do đó mới có ra danh từ kép “linh hồn”. Kể cả muôn loài thú lớn, nhỏ cũng có cái Hồn nhưng, thấp hơn loài người. Hồn cấp thấp này, được chia ra hai thứ Hồn : Sinh hồn và Giác hồn. Sinh hồn, là của những loài vật nhỏ như các loài kiến, ong, bướm, sâu bọ v.v… Giác hồn, là của những loài vật lớn như các loài cọp, voi, khỉ đột, chó, chim muôn v.v…Chúng có tâm biết tìm kiếm thức ăn cho bản thân và bảo vệ mạng sống. Hai loài Khỉ và Chó có tâm biết rất tinh khôn hơn các loài thú bốn chân, nhất là Chó biết phân biệt chủ của nó và người lạ, liền sủa, tấn công. Con khỉ biết hái dừa, đập v
22/07/2016(Xem: 4332)
Lịch sử không thường lặp lại, nhưng khi đã lặp lại thì có nhiều chuyện kỳ thú khiến ta không thể không lưu tâm. Đầu thế kỷ XI, thời nhà Lý, lịch sử Việt nam đã từng có một cuộc tình thơ mộng giữa vì vua đang ngự trị với một cô thôn nữ hái dâu, nuôi tằm, dệt lụa, đó là Lý Thánh Tông với Ỷ Lan. Sáu trăm năm sau lịch sử Việt nam lại ghi tiếp một mối tình khác cũng thơ mộng không kém giữa chàng công tử con nhà Chúa: Nguyễn Phúc Lan với cô thôn nữ cũng theo nghề hái dâu, ươm tơ, dệt lụa: Đoàn thị Ngọc vào đầu thế kỷ XVII, dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.
20/01/2016(Xem: 6491)
Nay chúng lại lợi dụng sự “hợp tác toàn diện Việt Trung” đã hành động một cách ngang tàn, hống hách, xua quân lấn chiếm Hoàng sa, Trường sa, tung hoành, ngang ngược lãnh hải Việt nam. Ngư dân ta đã phải ngậm đắng nuốt cay, trước hành động bắn giết, cướp giựt tài sản đánh bắt của đồng bào ta khắp ven biển các tỉnh miền Trung như: Quảng Nam, Quảng ngãi, Bình Định, Phú Yên, Nha Trang v.v… Đúng là bọn hải tặc, khủng bố Trung quốc đang hoành hành trên đất nước ta. Chẳng những thế, mà vùng cao nguyên Việt nam, nơi vị trí tối quan trong như nóc nhà của đất nước, mà chúng đã xua quân, ký kết với đảng Cộng sản Việt nam, khai thác Bauxit, phá hoại môi sinh, cướp đất, đuổi nhà dân chúng ở Lâm Đồng, sẽ tiến tới chiếm trọn cao nguyên Trung phần Việt nam, sau khi thôn tính vùng cao nguyên Bắc Việt, Chúng sẽ khai thác nhiều quặn khác như vàng, chì, kẽm, đồng, v.v…tài nguyên quốc gia không khỏi qua tay bọn thổ phỉ Trung quốc.
06/01/2016(Xem: 16768)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
18/12/2015(Xem: 13159)
Mười năm kháng chiến chống quân Minh Lê Lợi khởi nghĩa đất Lam Sơn Anh hùng áo vải nêu chí khí Toàn dân hợp lực cứu núi sông
18/12/2015(Xem: 11630)
Bạch Đằng giang xóa tan ngàn năm Bắc thuộc Vua Ngô Quyền xây dựng thiết lập triều ca Tiếp ngàn xưa bao đời lịch sử Ông Cha Nối ngàn sau Việt Nam non nước một nhà
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567