Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tái Sanh Duyên

22/07/201620:11(Xem: 4315)
Tái Sanh Duyên

 

 Ly Thanh Tong

 
TÁI SANH DUYÊN
 
 Châu Yến Loan

 

 

 

Lịch sử không thường lặp lại, nhưng khi đã lặp lại thì có nhiều chuyện kỳ thú khiến ta không thể không lưu tâm.

 

Đầu thế kỷ XI, thời nhà Lý, lịch sử Việt nam đã từng có một cuộc tình thơ mộng giữa vì vua đang ngự trị với một cô thôn nữ hái dâu, nuôi tằm, dệt lụa, đó là Lý Thánh Tông với Ỷ Lan. Sáu trăm năm sau lịch sử Việt nam lại ghi tiếp một mối tình khác cũng thơ mộng không kém giữa chàng công tử con nhà Chúa: Nguyễn Phúc Lan với cô thôn nữ cũng theo nghề hái dâu, ươm tơ, dệt lụa: Đoàn thị Ngọc vào đầu thế kỷ XVII, dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.

 

Đối chiếu cuộc đời của họ, nói theo ngôn ngữ hiện đại ta có thể nói như một bản sao còn người xưa thì nói đó là duyên tái sinh.

 

Lý Thánh Tông tên thật là Nhật Tôn lên ngôi năm 1054, đến 40 tuổi vẫn chưa có con nối dõi, một hôm vua đi cầu tự, qua làng Thổ Lội (sau đổi là Siêu Loại rồi lại đổi là Thuận Quang), người đi xem đứng đầy đường, có một người con gái hái dâu, thấy xe nhà vua đi cứ đứng tựa vào cây lan chứ không ra xem. Vua thấy thế lấy làm lạ, truyền gọi đem vào cung, phong là Ỷ Lan phu nhân. Bà có thai sinh ra hoàng tử Càn Đức (vua Lý Nhân Tông) được tấn phong là Nguyên phi. (Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Q1, tr 107, NXB TP Hồ Chí Minh)

 

Lý Thánh Tông và Thần Tông Nguyễn Phúc Lan xem ra có nhiều điểm tương đồng:

 

- Về dòng tộc

Nhà Lý 9 đời vua                                   Họ Nguyễn 9 đời chúa

1) Thái tổ Lý Công Uẩn                          1) Thái tổ Nguyễn Hoàng

2) Thái Tông Phật Mã                             2) Hy Tông Nguyễn Phúc Nguyên

3) Thánh Tông Nhật Tôn                        3)  Thần Tông Nguyễn Phúc Lan

4) Nhân Tông Càn Đức                          4) Thái Tông Nguyễn Phúc Tần

5) Thần Tông Dương Hoán                    5) Anh Tông Nguyễn Phúc Thái

6) Anh Tông Thiên Tộ                           6) Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu

7) Cao Tông Long Trát                          7) Túc Tông Nguyễn Phúc Thụ

8) Huệ Tông Sam                                   8) Thế Tông Nguyễn Phúc Khoát

9) Chiêu Hoàng                                      9) Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần

Nhà Lý từ khi Lý Thái Tổ lên ngôi năm 1010 đến khi Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh năm 1225, trị vì được 216 năm.

Họ Nguyễn từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558 đến khi Phú Xuân thất thủ Duệ Tông phải chạy vào Quảng Nam rồi vào Gia Định năm 1774, cũng cai quản Đàng Trong được 216 năm.

 

- Thánh Tông và Phúc Lan đều thuộc về thế hệ thứ ba:

Lý Thái Tổ - Lý Thái Tông - Lý Thánh Tông

Nguyễn Hoàng - Nguyễn Phúc Nguyên – Nguyễn Phúc Lan.

Cha Thánh Tông là Thái Tông vừa lên ngôi đã bị các em là Đông Chính Vương, Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương nổi loạn tranh ngôi, nhờ có Lê Phụng Hiểu dẹp tan.

Cha của Phúc Lan là Phúc Nguyên ở ngôi chưa được bao lâu thì bị hai em là Nguyễn Phúc Hiệp và Nguyễn Phúc Trạch mưu hại, nhờ có Nguyễn Phúc Tuyên trừ được.

 

- Ở ngôi không được lâu:

Lý Thánh Tông trị vì 17 năm, Nguyễn Phúc Lan ở ngôi chúa 13 năm.

 

- Cùng chết đột ngột ở tuổi tri thiên mệnh:

Lý Thánh Tông băng ở điện Hội Tiên, thọ 50 tuổi, Nguyễn Phúc Lan chiến thắng quân Trịnh trở về đến phá Tam Giang thì đột ngột qua đời trong tiếng trống khải hoàn lúc 48 tuổi.

 

- Cùng mất vào năm Tý:

Lý Thánh Tông mất năm Nhâm Tý 1072, Nguyễn Phúc Lan chết năm Mậu Tý 1648, tổng số của hai năm mất đó đều là 19 (vi diệu là do hai cách cộng khác nhau (10+7+2) và (1+6+4+8)

 

- Có chung một chữ Thần Võ:

Lý Thánh Tông sau khi thắng vua Chiêm là Chế Củ lấy được ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh liền cải hiệu là Thần Võ.

Nguyễn Phúc Lan sau khi mất được con là Nguyễn Phúc Tần tôn thụy là Đại Nguyên soái thống suất Thuận Hóa Quảng Nam đẳng xứ chưởng quốc chính Uy Đoán Thần Võ Nhân Chiêu Vương.

 

- Cùng chú trọng văn học:

Năm Canh Tuất 1070 Lý Thánh Tông bắt đầu lập Văn miếu, đắp tượng  Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử, bốn học trò của Khổng Tử được thờ phụ ở bên Khổng Tử), vẽ tượng Thất thập nhị hiền ( bảy mươi hai người học trò giỏi của Khổng Tử), bốn mùa cúng tế, Hoàng thái tử đến đấy học để đề cao việc học.

Năm Đinh Hợi 1647 Nguyễn Phúc Lan bắt đầu mở khoa thi Chính đồ và Hoa Văn ở Đàng Trong, lấy được 7 người trúng cách về Chính đồ, 24 người trúng cách về Hoa Văn,tất cả đều được bổ dụng.

 

- Cùng có chiến công về phía Bắc:

Năm Kỷ Hợi 1059, Lý Thánh Tông đánh nhà Tống đến Khâm Châu rồi trở về, năm Canh Thìn 1640 Nguyễn Phúc Lan lấy được Châu Bắc Bố Chính rồi  trả lại cho họ Trịnh.

 

- Cùng có công với đất phương Nam:

Năm Ất Dậu 1069, Lý Thánh Tông đem quân đánh Chiêm Thành bắt được vua Chiêm là Chế Củ cùng 5 vạn người Chiêm. Chế Củ muốn được tiếp tục làm vua nên xin dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh để chuộc tội.

Năm Mậu Tý 1648, sau khi chiến thắng quân Trịnh bắt được 3 vạn tàn quân, chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan bàn với các tướng đem số tàn binh bắt được  giải vào Nam, chia ra từng nhóm 50 người làm một ấp, cấp lương thực, trâu bò để họ khai khẩn ruộng hoang tính kế lâu dài. Từ đó, từ Điện Bàn, Thăng Bình đến Phú Yên làng mạc liền nhau, dân cư không còn thưa thớt như trước.

 

- Cả hai đều là người nhân từ:

Mùa đông năm Ất Mùi 1055, trời rét lắm, Lý Thánh Tông bảo các quan tả hữu rằng: “Trẫm ở trong cung nào lò sưởi ngự, nào áo lót cầu còn rét như thế này, nghĩ đến người tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa biết rõ ngay gian, mà ăn không no bụng, áo không kín mình, gió rét khổ thân, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy hạ lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu và mối ngày 2 lần phát cơm” (Đại Việt sử kí toàn thư, T1, NXB Văn hóa Thông tin, tr 318)

Nguyễn Phúc Lan thì cùng các tướng tá bàn cách khu xử những tàn quân Trịnh bị bắt. Có người cho rằng quân giặc tráo trở để đấy thì sợ sinh biến, không bằng đưa họ đi ở chỗ núi sâu hay nơi hải đảo để khỏi lo về sau; lại có người cho rằng giết tướng hiệu đi còn quân thì thả về miền Bắc. Chúa nói: “ Hiện nay từ miền Thăng (phủ Thăng Bình) Điện (phủ Điện Bàn) trở vào Nam đều là đất cũ của người Chàm, dân cư thưa thớt, nếu đem chúng an tháp vào đất ấy, cấp cho canh ngưu điền khí, chia ra từng bộ từng xóm, tính nhân khẩu cấp cho lương ăn để chúng khai khẩn ruộng hoang, thời trong khoảng mấy năm, thuế má thu được có thể giúp quốc dụng, và sau hai mươi năm, sinh sản ngày nhiều, có thể thêm vào quân số, có gì mà lo về sau!”

Bèn tha các tướng Gia, Lý và bọn tỳ tướng hơn 60 người về Bắc, rồi chia tan số binh ra cho ở các nơi, cứ 50 người làm một ấp, đều cấp cho lương ăn nửa năm (Đại Nam thực lục, T1,NXB Giáo Dục, tr 59)

 

- Về phương diện tình ái, cả hai đều gặp người yêu trên đường đi vãng cảnh, họ đều là người thôn dã, cùng một nghề hái dâu nuôi tằm, và tất nhiên đều có sắc đẹp mỹ miều khiến họ phải say mê, cả hai không chỉ yêu vì sắc mà còn cảm vì tài, hai cô thôn nữ đều đối đáp thông minh sắc sảo, đầy bản lĩnh.

Có điều khác biệt là Thánh Tông gặp Nguyên phi Ỷ  Lan quá trễ, thời gian chăn gối không nhiều chỉ độ mười năm, thật là ngắn ngủi. Sáu trăm năm sau như để bù đắp lại cuộc tình dang dở vì hạn giới thời gian nghiệt ngã của Lý Thánh Tông với Ỷ Lan, Nguyễn Phúc Lan đã may mắn gặp Hiếu Chiêu Hoàng Hậu rất sớm ở tuổi đương thì, họ đã chung hưởng hạnh phúc dài lâu mà không hoài phí tuổi thanh xuân.

Bà Ỷ Lan chỉ là thứ phi của Lý Thánh Tông, với bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu việc này đã được điều chỉnh. Bà trở thành chính phi từ lúc tóc còn xanh.

Về việc tiếp cận đối tượng buộc họ phải chú ý đến mình, cả hai bà đều là những tay kiệt xuất. Bà Ỷ lan thì chọn cách tĩnh, bà đứng yên giữa dòng người như đang bôn ba không ngừng chen lấn, một mình tựa gốc Lan, giai nhân càng thêm yểu điệu, vừa như hững hờ, vừa như bất cần. Phong cách của bà đã làm cho lòng tự tôn của bậc vương giả kinh ngạc và thế là việc gì phải đến đã đến.

Bà Hiếu Chiêu thì có cách tiếp cận khác, không như Ỷ Lan bà dùng tiếng hát khua động đêm trăng tĩnh mịch, giữa bãi dâu ngút ngàn, bên con sông lặng lẽ, chờ đón thuyền rồng của chàng công tử đương tơ mà bà biết sẽ đi qua (cách Dinh Chiêm vài dặm, ai lại chẳng kháo nhau thuyền Chúa sẽ du hành, nhất là trên thuyền còn có cả một chàng vương tôn thiếu niên anh tuấn, giấc mơ của các cô gái đương thì). Thuyền rồng lững lờ trôi lại, cô thôn nữ Chiêm Sơn mơ màng cất tiếng hát:

                              Tai nghe chúa ngự thuyền rồng

                    Cảm thương phận thiếp má hồng nắng mưa.

Làm sao không xao xuyến khi nghe giọng hát mượt mà vang động cả dòng sông, làm sao có thể thờ ơ trước cảnh cô đơn của một người vẫn ra sức miệt mài lao động giữa đêm khuya khoắt, nhất là người đó lại là một thiếu nữ trẻ trung như tiếng hát của nàng. Câu hát vừa dứt thì tiếng hát của nàng lại tiếp tục ngân vang càng làm trái tim chàng thiếu niên công tử nôn nao:

                              Thuyền rồng, gác phượng đâu đâu

                    Thiếp thương phận thiếp hái dâu một mình.

Tiếng hát hòa theo tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền, con thuyền lắc lư theo sóng nước, lòng chàng công tử cũng dâng tràn nỗi xót xa, phải chăng chàng có lỗi khi đang tựa lưng nơi thuyền rồng tận hưởng cảnh xa hoa quyền quý, để cho ai đó phải lầm lũi hái dâu một mình. Tiếng hát véo von từ xa vọng lại vừa trong, vừa ngọt, vừa chua chát, như than, như trách, như oán, như hờn. Công tử Nguyễn Phúc Lan hoàn toàn bị tiếng hát của cô thôn nữ bên gành Điện Châu thu hút, chàng không thể không đi tìm gặp nàng, thuyền rồng cập bến Điện Châu, dưới bóng dâu xanh tràn ngập ánh trăng vàng, công tử Nguyễn Phúc Lan đã diện kiến cô thôn nữ họ Đoàn. Không trông thấy mặt thì thôi, thấy rồi làm sao ngăn cản hai trái tim cùng chung nhịp đập.

 

- Cả hai đều mắc phải lỗi lầm trong cuộc đời:

Lý Thánh Tông đã nhọc sức dân để xây tháp Báo Thiên, phí của dân để làm cung Dâm Đàm còn Nguyễn Phúc Lan cầm quyền được mấy năm thì sa lưới Tống Thị (vợ của người anh cả là Nguyễn Phúc Kỳ mới vừa quá cố). Được chúa thương tình cho phép ra vào cung phủ, Tống Thị luôn  vận dụng khả năng quyến rũ của người phụ nữ đang ở vào độ tuổi sung mãn, hấp dẫn nhất để làm cho chúa không thể cầm lòng đâm ra say đắm, xao nhãng việc triều chính, chỉ lo yến tiệc vui chơi bất chấp dư luận đàm tiếu. Chúa lại còn muốn xây lầu cao để hưởng lạc cùng Tống Thị, bắt dân lên rừng tìm gỗ quí dâng nạp. Các bậc công khanh can gián nhưng chúa không nghe, duy chỉ có Vân Hiên hầu dám nói thẳng mối hiểm họa, chúa mới đình chỉ việc xây lầu.

 

Ở trên đã nói cuộc đời của Lý Thánh Tông với Ỷ Lan và cuộc tình của Nguyễn Phúc Lan với Hiếu Chiêu như một bản sao, cách nói đó chỉ là gợi mở, một cách nhìn tổng quát còn đi sâu vào thì không có cuộc đời nào lại giống y chang cuộc đời nào. Ở họ có những điểm tương đồng nhưng cũng có những khác biệt rất lớn, họ như vừa là một nhưng không phải một, họ như vừa là hai nhưng không hẳn là hai. Cuộc đời họ hình như là một sự lặp lại nhưng lặp lại trong khác biệt, sự lặp lại như vừa tiếp nối vừa bổ sung, vừa điều chỉnh, giống như bản thân ta trong suốt cuộc đời là ta nhưng không hẳn là ta trong từng thời điểm.

Lý Thánh Tông gặp Ỷ Lan quá muộn màng ở tuổi 40 lại chỉ sống với nhau không trọn mười năm. Cuộc tình muộn và vắn đó hẳn đã để lại cho họ nhiều hối tiếc. Họ chỉ có tình già mà không có tình non trẻ, họ chỉ sống ở xứ Đàng Ngoài mà không có được xứ Đàng Trong. Nguyễn Phúc Lan và Hiếu Chiêu dường như sinh ra để bổ túc cho những gì họ ước ao mà chưa trọn vẹn. Phúc Lan và Hiếu Chiêu chỉ sống ở Đàng Trong để nối dài cho Đàng Ngoài của Thánh Tông và Ỷ Lan. Đó là sự nối tiếp chứ không nối lặp vì Lý Thánh Tông đã mở nước đến Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh thì Phúc Lan đi tiếp từ Thuận Hóa đến Quảng Nam, Phú Yên chưa kể thời đó một số dân của ta đã vào khai hác miền Nam theo chân Công nương Ngọc Vạn, cho nên đã có lần Phúc Lan đánh chiếm được  Bắc Bố Chính rồi cũng trả lại cho họ Trịnh.

Lý Thánh Tông thiếu mất đoạn tình ở trước tuổi 40, Phúc Lan đã bổ túc cuộc tình ở lứa tuổi thanh xuân, sôi nổi, mãnh liệt, nhưng chỉ đến tuổi 39 thì thôi. Đến tuổi này Phúc Lan đã rẽ ngang, ông không còn say mê chung thủy với Hiếu Chiêu, cuộc tình của ông đã có bước ngoặt.

Tống Thị đã bước vào đời Phúc Lan với xâu chuỗi bách hoa trăm sắc trăm hương nồng nàn quyến rũ làm cho Phúc Lan như si như dại, hẳn bà Thượng Dương ở dưới tuyền đài cũng hả dạ, Tống Thị đã giành được cái gì bà đã mất. Nhưng lần này Hiếu Chiêu Hoàng Hậu con người đoan trang hiền thục đã không phạm sai lầm như Ỷ Lan, hình như có một sự điều chỉnh, bà chỉ sống âm thầm trong cung cấm không để cho quyền lực cám dỗ, bà để Tống Thị tự do. Hiếu Chiêu không sát hại Tống Thị thảm khốc như Ỷ Lan đã nhẫn tâm ra tay với Thượng Dương Hoàng Thái Hậu.

 

 

 

                                                                                  Châu Yến Loan

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/04/2017(Xem: 6507)
Sáng nay, mồng 10/03/Đinh Dậu (06/04/2017), UBND tỉnh Khánh Hòa đã tổ chức lễ giỗ Đức Quốc tổ Hùng Vương tại đền Hùng Vương (số 173 đường Ngô Gia Tự, phường Tân Lập, TP.Nha Trang).
27/03/2017(Xem: 6352)
"GS. Cao Huy Thuần được biết đến là một trong những nhà hoạt động văn hóa - giáo dục có uy tín nhất không chỉ tại Việt Nam mà còn trên toàn thế giới. Đặc biệt, ở vị giáo sư đang sinh sống và giảng dạy tại trường Đại học Picardie (Pháp), là một tâm hồn mang đậm âm hưởng Phật giáo, một tôn giáo mà với ông là thần hồn của dân tộc, là điểm tựa để con người sống đúng nghĩa là con người."
09/01/2017(Xem: 8828)
Châm là một thủ thuật điều trị bệnh bằng cách dùng các vật nhọn châm vào huyệt vị trên cơ thể bệnh nhân. Thời thượng cổ thầy thuốc dùng đá nhọn để châm gọi là thạch châm về sau có sự cải tiến, kim châm được làm từ xương, từ đồng rồi sắt, sau đó là vàng hay bạc đến nay là thép không gỉ. Về nguồn gốc phát sinh kỹ thuật châm, sách “Hoàng đế Nội kinh”, thánh thư của Đông y, Thiên mười hai “Dị pháp, phương nghi luận” cho biết: “Nam phương là một khu vực trưởng dưỡng của trời, đất, dương khí ở nơi đó rất thịnh. Đất ở đó thấp và thủy thổ ẩm ướt, thường tụ nhiều sa mù, mốc. Người sinh nơi đó ưa ăn vị chua và các thức ướp, tạng người thớ thịt mịn đặc và hiện sắc đỏ, phần nhiều mắc bệnh loạn tý. Về phép trị, nên dùng “vi châm”. Cho nên “cửu châm” (chín loại châm) cũng đến từ gốc phương Nam”.
07/09/2016(Xem: 16057)
Vào năm 2003 khi thảo Vạn Hữu Trường Ca được nửa chừng, bèn nghĩ có lẽ dừng lại để sau này sẽ tiếp để đi vào Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trước, và mọi thể dạng mang sắc thái tình tự, dân tộc, quê hương, nhân sinh, mọi ngõ ngách cuộc đời và nhân thế, các sự kiện diễn ra, nghe tiếng kêu đồng loại,... đã hơn 34 năm qua, dĩ nhiên là văn vần, còn văn xuôi thì ít bởi ít khả năng vốn liếng thiên tư. Đến nay đã gần 1,700 bài khác nhau (một ngàn bảy trăm). Hai tuần trước chợt nhớ Vạn Hữu Trường Ca còn dang dở, dành vài ngày đi nốt và hoàn tất.
20/08/2016(Xem: 6047)
Hồn Nước là danh từ kép rất đa dạng, cho nên trước khi nói về Hồn Nước, ta phải nói đến chữ Hồn. Hồn, là danh từ đơn, để chỉ cho sức mạnh tinh thần, cái biết nhạy cảm của tâm ý con người trong đời sống vật chất thường nhật, tất cả do tâm chỉ đạo hành động mọi việc, do đó mới có ra danh từ kép “linh hồn”. Kể cả muôn loài thú lớn, nhỏ cũng có cái Hồn nhưng, thấp hơn loài người. Hồn cấp thấp này, được chia ra hai thứ Hồn : Sinh hồn và Giác hồn. Sinh hồn, là của những loài vật nhỏ như các loài kiến, ong, bướm, sâu bọ v.v… Giác hồn, là của những loài vật lớn như các loài cọp, voi, khỉ đột, chó, chim muôn v.v…Chúng có tâm biết tìm kiếm thức ăn cho bản thân và bảo vệ mạng sống. Hai loài Khỉ và Chó có tâm biết rất tinh khôn hơn các loài thú bốn chân, nhất là Chó biết phân biệt chủ của nó và người lạ, liền sủa, tấn công. Con khỉ biết hái dừa, đập v
20/01/2016(Xem: 6466)
Nay chúng lại lợi dụng sự “hợp tác toàn diện Việt Trung” đã hành động một cách ngang tàn, hống hách, xua quân lấn chiếm Hoàng sa, Trường sa, tung hoành, ngang ngược lãnh hải Việt nam. Ngư dân ta đã phải ngậm đắng nuốt cay, trước hành động bắn giết, cướp giựt tài sản đánh bắt của đồng bào ta khắp ven biển các tỉnh miền Trung như: Quảng Nam, Quảng ngãi, Bình Định, Phú Yên, Nha Trang v.v… Đúng là bọn hải tặc, khủng bố Trung quốc đang hoành hành trên đất nước ta. Chẳng những thế, mà vùng cao nguyên Việt nam, nơi vị trí tối quan trong như nóc nhà của đất nước, mà chúng đã xua quân, ký kết với đảng Cộng sản Việt nam, khai thác Bauxit, phá hoại môi sinh, cướp đất, đuổi nhà dân chúng ở Lâm Đồng, sẽ tiến tới chiếm trọn cao nguyên Trung phần Việt nam, sau khi thôn tính vùng cao nguyên Bắc Việt, Chúng sẽ khai thác nhiều quặn khác như vàng, chì, kẽm, đồng, v.v…tài nguyên quốc gia không khỏi qua tay bọn thổ phỉ Trung quốc.
06/01/2016(Xem: 16688)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động mạnh mẽ của bảy dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại đất nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt Nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công (1590 – 1644), dòng Thập Tháp của Siêu Bạch Thọ Tông (1648–1728), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoán Bích (1648–1728), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm Tế và dòng Hòe Nhai của Thủy Nguyệt thuộc phái Tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời tại Việt Nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647–1726) hoặc do các vị thiền sư người Việt Nam hay Trung Quốc hành đạo tại Việt Nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là các dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670–1746) và Thiên Thai
18/12/2015(Xem: 13082)
Mười năm kháng chiến chống quân Minh Lê Lợi khởi nghĩa đất Lam Sơn Anh hùng áo vải nêu chí khí Toàn dân hợp lực cứu núi sông
18/12/2015(Xem: 11573)
Bạch Đằng giang xóa tan ngàn năm Bắc thuộc Vua Ngô Quyền xây dựng thiết lập triều ca Tiếp ngàn xưa bao đời lịch sử Ông Cha Nối ngàn sau Việt Nam non nước một nhà
15/12/2015(Xem: 18925)
- Tên thật: Triệu Thị Trinh, hoặc Triệu Thị Chinh, Triệu Trịnh Nương, còn có tên: Triệu Ẩu, Nhụy Kiều Tướng Quân, Lệ Hải Bà Vương. - 19 tuổi, thu phục con voi trắng một ngà dữ dằn, phá hại mùa màng, giết hại dân lành. Chính con voi này Bà cỡi mỗi khi ra trận. Cũng năm 19 tuổi này, Bà đã vào rừng lập chiến khu tại Sơn Tùng, hàng ngàn tráng sĩ xin theo, học kỹ chiến thuật, rèn binh bày trận. Và chính nơi đây là Trung tâm cuộc Khởi Nghĩa vào năm 248, thời kỳ Bắc thuộc lần Thứ Hai. - Bà tuẩn tiết ngày 21 tháng 02 năm Mậu Thìn 248 tại Núi Tùng, Thanh Hóa, lúc bấy giờ Bà mới 23 tuổi. - Bà sinh tại huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Nhưng về năm sinh, tôi xin đánh dấu hỏi ở đây: Nhiều sử sách bài viết đã ghi nằm trên tủ sách và online trên hệ mạng, rõ ràng rằng: "Triệu Thị Trinh - Bà Triệu (225-248)" ; Lại rõ ràng rằng: "Bà Triệu Thị Trinh sinh ngày 02 tháng 10 năm 226 (Bính Ngọ)". Điểm này xin dành cho những bậc Thức giả và các nhà Sử học.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567