Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tái Sanh Duyên

22/07/201620:11(Xem: 4310)
Tái Sanh Duyên

 

 Ly Thanh Tong

 
TÁI SANH DUYÊN
 
 Châu Yến Loan

 

 

 

Lịch sử không thường lặp lại, nhưng khi đã lặp lại thì có nhiều chuyện kỳ thú khiến ta không thể không lưu tâm.

 

Đầu thế kỷ XI, thời nhà Lý, lịch sử Việt nam đã từng có một cuộc tình thơ mộng giữa vì vua đang ngự trị với một cô thôn nữ hái dâu, nuôi tằm, dệt lụa, đó là Lý Thánh Tông với Ỷ Lan. Sáu trăm năm sau lịch sử Việt nam lại ghi tiếp một mối tình khác cũng thơ mộng không kém giữa chàng công tử con nhà Chúa: Nguyễn Phúc Lan với cô thôn nữ cũng theo nghề hái dâu, ươm tơ, dệt lụa: Đoàn thị Ngọc vào đầu thế kỷ XVII, dưới thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.

 

Đối chiếu cuộc đời của họ, nói theo ngôn ngữ hiện đại ta có thể nói như một bản sao còn người xưa thì nói đó là duyên tái sinh.

 

Lý Thánh Tông tên thật là Nhật Tôn lên ngôi năm 1054, đến 40 tuổi vẫn chưa có con nối dõi, một hôm vua đi cầu tự, qua làng Thổ Lội (sau đổi là Siêu Loại rồi lại đổi là Thuận Quang), người đi xem đứng đầy đường, có một người con gái hái dâu, thấy xe nhà vua đi cứ đứng tựa vào cây lan chứ không ra xem. Vua thấy thế lấy làm lạ, truyền gọi đem vào cung, phong là Ỷ Lan phu nhân. Bà có thai sinh ra hoàng tử Càn Đức (vua Lý Nhân Tông) được tấn phong là Nguyên phi. (Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Q1, tr 107, NXB TP Hồ Chí Minh)

 

Lý Thánh Tông và Thần Tông Nguyễn Phúc Lan xem ra có nhiều điểm tương đồng:

 

- Về dòng tộc

Nhà Lý 9 đời vua                                   Họ Nguyễn 9 đời chúa

1) Thái tổ Lý Công Uẩn                          1) Thái tổ Nguyễn Hoàng

2) Thái Tông Phật Mã                             2) Hy Tông Nguyễn Phúc Nguyên

3) Thánh Tông Nhật Tôn                        3)  Thần Tông Nguyễn Phúc Lan

4) Nhân Tông Càn Đức                          4) Thái Tông Nguyễn Phúc Tần

5) Thần Tông Dương Hoán                    5) Anh Tông Nguyễn Phúc Thái

6) Anh Tông Thiên Tộ                           6) Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu

7) Cao Tông Long Trát                          7) Túc Tông Nguyễn Phúc Thụ

8) Huệ Tông Sam                                   8) Thế Tông Nguyễn Phúc Khoát

9) Chiêu Hoàng                                      9) Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần

Nhà Lý từ khi Lý Thái Tổ lên ngôi năm 1010 đến khi Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh năm 1225, trị vì được 216 năm.

Họ Nguyễn từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558 đến khi Phú Xuân thất thủ Duệ Tông phải chạy vào Quảng Nam rồi vào Gia Định năm 1774, cũng cai quản Đàng Trong được 216 năm.

 

- Thánh Tông và Phúc Lan đều thuộc về thế hệ thứ ba:

Lý Thái Tổ - Lý Thái Tông - Lý Thánh Tông

Nguyễn Hoàng - Nguyễn Phúc Nguyên – Nguyễn Phúc Lan.

Cha Thánh Tông là Thái Tông vừa lên ngôi đã bị các em là Đông Chính Vương, Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương nổi loạn tranh ngôi, nhờ có Lê Phụng Hiểu dẹp tan.

Cha của Phúc Lan là Phúc Nguyên ở ngôi chưa được bao lâu thì bị hai em là Nguyễn Phúc Hiệp và Nguyễn Phúc Trạch mưu hại, nhờ có Nguyễn Phúc Tuyên trừ được.

 

- Ở ngôi không được lâu:

Lý Thánh Tông trị vì 17 năm, Nguyễn Phúc Lan ở ngôi chúa 13 năm.

 

- Cùng chết đột ngột ở tuổi tri thiên mệnh:

Lý Thánh Tông băng ở điện Hội Tiên, thọ 50 tuổi, Nguyễn Phúc Lan chiến thắng quân Trịnh trở về đến phá Tam Giang thì đột ngột qua đời trong tiếng trống khải hoàn lúc 48 tuổi.

 

- Cùng mất vào năm Tý:

Lý Thánh Tông mất năm Nhâm Tý 1072, Nguyễn Phúc Lan chết năm Mậu Tý 1648, tổng số của hai năm mất đó đều là 19 (vi diệu là do hai cách cộng khác nhau (10+7+2) và (1+6+4+8)

 

- Có chung một chữ Thần Võ:

Lý Thánh Tông sau khi thắng vua Chiêm là Chế Củ lấy được ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh liền cải hiệu là Thần Võ.

Nguyễn Phúc Lan sau khi mất được con là Nguyễn Phúc Tần tôn thụy là Đại Nguyên soái thống suất Thuận Hóa Quảng Nam đẳng xứ chưởng quốc chính Uy Đoán Thần Võ Nhân Chiêu Vương.

 

- Cùng chú trọng văn học:

Năm Canh Tuất 1070 Lý Thánh Tông bắt đầu lập Văn miếu, đắp tượng  Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử, bốn học trò của Khổng Tử được thờ phụ ở bên Khổng Tử), vẽ tượng Thất thập nhị hiền ( bảy mươi hai người học trò giỏi của Khổng Tử), bốn mùa cúng tế, Hoàng thái tử đến đấy học để đề cao việc học.

Năm Đinh Hợi 1647 Nguyễn Phúc Lan bắt đầu mở khoa thi Chính đồ và Hoa Văn ở Đàng Trong, lấy được 7 người trúng cách về Chính đồ, 24 người trúng cách về Hoa Văn,tất cả đều được bổ dụng.

 

- Cùng có chiến công về phía Bắc:

Năm Kỷ Hợi 1059, Lý Thánh Tông đánh nhà Tống đến Khâm Châu rồi trở về, năm Canh Thìn 1640 Nguyễn Phúc Lan lấy được Châu Bắc Bố Chính rồi  trả lại cho họ Trịnh.

 

- Cùng có công với đất phương Nam:

Năm Ất Dậu 1069, Lý Thánh Tông đem quân đánh Chiêm Thành bắt được vua Chiêm là Chế Củ cùng 5 vạn người Chiêm. Chế Củ muốn được tiếp tục làm vua nên xin dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh để chuộc tội.

Năm Mậu Tý 1648, sau khi chiến thắng quân Trịnh bắt được 3 vạn tàn quân, chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan bàn với các tướng đem số tàn binh bắt được  giải vào Nam, chia ra từng nhóm 50 người làm một ấp, cấp lương thực, trâu bò để họ khai khẩn ruộng hoang tính kế lâu dài. Từ đó, từ Điện Bàn, Thăng Bình đến Phú Yên làng mạc liền nhau, dân cư không còn thưa thớt như trước.

 

- Cả hai đều là người nhân từ:

Mùa đông năm Ất Mùi 1055, trời rét lắm, Lý Thánh Tông bảo các quan tả hữu rằng: “Trẫm ở trong cung nào lò sưởi ngự, nào áo lót cầu còn rét như thế này, nghĩ đến người tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa biết rõ ngay gian, mà ăn không no bụng, áo không kín mình, gió rét khổ thân, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy hạ lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu và mối ngày 2 lần phát cơm” (Đại Việt sử kí toàn thư, T1, NXB Văn hóa Thông tin, tr 318)

Nguyễn Phúc Lan thì cùng các tướng tá bàn cách khu xử những tàn quân Trịnh bị bắt. Có người cho rằng quân giặc tráo trở để đấy thì sợ sinh biến, không bằng đưa họ đi ở chỗ núi sâu hay nơi hải đảo để khỏi lo về sau; lại có người cho rằng giết tướng hiệu đi còn quân thì thả về miền Bắc. Chúa nói: “ Hiện nay từ miền Thăng (phủ Thăng Bình) Điện (phủ Điện Bàn) trở vào Nam đều là đất cũ của người Chàm, dân cư thưa thớt, nếu đem chúng an tháp vào đất ấy, cấp cho canh ngưu điền khí, chia ra từng bộ từng xóm, tính nhân khẩu cấp cho lương ăn để chúng khai khẩn ruộng hoang, thời trong khoảng mấy năm, thuế má thu được có thể giúp quốc dụng, và sau hai mươi năm, sinh sản ngày nhiều, có thể thêm vào quân số, có gì mà lo về sau!”

Bèn tha các tướng Gia, Lý và bọn tỳ tướng hơn 60 người về Bắc, rồi chia tan số binh ra cho ở các nơi, cứ 50 người làm một ấp, đều cấp cho lương ăn nửa năm (Đại Nam thực lục, T1,NXB Giáo Dục, tr 59)

 

- Về phương diện tình ái, cả hai đều gặp người yêu trên đường đi vãng cảnh, họ đều là người thôn dã, cùng một nghề hái dâu nuôi tằm, và tất nhiên đều có sắc đẹp mỹ miều khiến họ phải say mê, cả hai không chỉ yêu vì sắc mà còn cảm vì tài, hai cô thôn nữ đều đối đáp thông minh sắc sảo, đầy bản lĩnh.

Có điều khác biệt là Thánh Tông gặp Nguyên phi Ỷ  Lan quá trễ, thời gian chăn gối không nhiều chỉ độ mười năm, thật là ngắn ngủi. Sáu trăm năm sau như để bù đắp lại cuộc tình dang dở vì hạn giới thời gian nghiệt ngã của Lý Thánh Tông với Ỷ Lan, Nguyễn Phúc Lan đã may mắn gặp Hiếu Chiêu Hoàng Hậu rất sớm ở tuổi đương thì, họ đã chung hưởng hạnh phúc dài lâu mà không hoài phí tuổi thanh xuân.

Bà Ỷ Lan chỉ là thứ phi của Lý Thánh Tông, với bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu việc này đã được điều chỉnh. Bà trở thành chính phi từ lúc tóc còn xanh.

Về việc tiếp cận đối tượng buộc họ phải chú ý đến mình, cả hai bà đều là những tay kiệt xuất. Bà Ỷ lan thì chọn cách tĩnh, bà đứng yên giữa dòng người như đang bôn ba không ngừng chen lấn, một mình tựa gốc Lan, giai nhân càng thêm yểu điệu, vừa như hững hờ, vừa như bất cần. Phong cách của bà đã làm cho lòng tự tôn của bậc vương giả kinh ngạc và thế là việc gì phải đến đã đến.

Bà Hiếu Chiêu thì có cách tiếp cận khác, không như Ỷ Lan bà dùng tiếng hát khua động đêm trăng tĩnh mịch, giữa bãi dâu ngút ngàn, bên con sông lặng lẽ, chờ đón thuyền rồng của chàng công tử đương tơ mà bà biết sẽ đi qua (cách Dinh Chiêm vài dặm, ai lại chẳng kháo nhau thuyền Chúa sẽ du hành, nhất là trên thuyền còn có cả một chàng vương tôn thiếu niên anh tuấn, giấc mơ của các cô gái đương thì). Thuyền rồng lững lờ trôi lại, cô thôn nữ Chiêm Sơn mơ màng cất tiếng hát:

                              Tai nghe chúa ngự thuyền rồng

                    Cảm thương phận thiếp má hồng nắng mưa.

Làm sao không xao xuyến khi nghe giọng hát mượt mà vang động cả dòng sông, làm sao có thể thờ ơ trước cảnh cô đơn của một người vẫn ra sức miệt mài lao động giữa đêm khuya khoắt, nhất là người đó lại là một thiếu nữ trẻ trung như tiếng hát của nàng. Câu hát vừa dứt thì tiếng hát của nàng lại tiếp tục ngân vang càng làm trái tim chàng thiếu niên công tử nôn nao:

                              Thuyền rồng, gác phượng đâu đâu

                    Thiếp thương phận thiếp hái dâu một mình.

Tiếng hát hòa theo tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền, con thuyền lắc lư theo sóng nước, lòng chàng công tử cũng dâng tràn nỗi xót xa, phải chăng chàng có lỗi khi đang tựa lưng nơi thuyền rồng tận hưởng cảnh xa hoa quyền quý, để cho ai đó phải lầm lũi hái dâu một mình. Tiếng hát véo von từ xa vọng lại vừa trong, vừa ngọt, vừa chua chát, như than, như trách, như oán, như hờn. Công tử Nguyễn Phúc Lan hoàn toàn bị tiếng hát của cô thôn nữ bên gành Điện Châu thu hút, chàng không thể không đi tìm gặp nàng, thuyền rồng cập bến Điện Châu, dưới bóng dâu xanh tràn ngập ánh trăng vàng, công tử Nguyễn Phúc Lan đã diện kiến cô thôn nữ họ Đoàn. Không trông thấy mặt thì thôi, thấy rồi làm sao ngăn cản hai trái tim cùng chung nhịp đập.

 

- Cả hai đều mắc phải lỗi lầm trong cuộc đời:

Lý Thánh Tông đã nhọc sức dân để xây tháp Báo Thiên, phí của dân để làm cung Dâm Đàm còn Nguyễn Phúc Lan cầm quyền được mấy năm thì sa lưới Tống Thị (vợ của người anh cả là Nguyễn Phúc Kỳ mới vừa quá cố). Được chúa thương tình cho phép ra vào cung phủ, Tống Thị luôn  vận dụng khả năng quyến rũ của người phụ nữ đang ở vào độ tuổi sung mãn, hấp dẫn nhất để làm cho chúa không thể cầm lòng đâm ra say đắm, xao nhãng việc triều chính, chỉ lo yến tiệc vui chơi bất chấp dư luận đàm tiếu. Chúa lại còn muốn xây lầu cao để hưởng lạc cùng Tống Thị, bắt dân lên rừng tìm gỗ quí dâng nạp. Các bậc công khanh can gián nhưng chúa không nghe, duy chỉ có Vân Hiên hầu dám nói thẳng mối hiểm họa, chúa mới đình chỉ việc xây lầu.

 

Ở trên đã nói cuộc đời của Lý Thánh Tông với Ỷ Lan và cuộc tình của Nguyễn Phúc Lan với Hiếu Chiêu như một bản sao, cách nói đó chỉ là gợi mở, một cách nhìn tổng quát còn đi sâu vào thì không có cuộc đời nào lại giống y chang cuộc đời nào. Ở họ có những điểm tương đồng nhưng cũng có những khác biệt rất lớn, họ như vừa là một nhưng không phải một, họ như vừa là hai nhưng không hẳn là hai. Cuộc đời họ hình như là một sự lặp lại nhưng lặp lại trong khác biệt, sự lặp lại như vừa tiếp nối vừa bổ sung, vừa điều chỉnh, giống như bản thân ta trong suốt cuộc đời là ta nhưng không hẳn là ta trong từng thời điểm.

Lý Thánh Tông gặp Ỷ Lan quá muộn màng ở tuổi 40 lại chỉ sống với nhau không trọn mười năm. Cuộc tình muộn và vắn đó hẳn đã để lại cho họ nhiều hối tiếc. Họ chỉ có tình già mà không có tình non trẻ, họ chỉ sống ở xứ Đàng Ngoài mà không có được xứ Đàng Trong. Nguyễn Phúc Lan và Hiếu Chiêu dường như sinh ra để bổ túc cho những gì họ ước ao mà chưa trọn vẹn. Phúc Lan và Hiếu Chiêu chỉ sống ở Đàng Trong để nối dài cho Đàng Ngoài của Thánh Tông và Ỷ Lan. Đó là sự nối tiếp chứ không nối lặp vì Lý Thánh Tông đã mở nước đến Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh thì Phúc Lan đi tiếp từ Thuận Hóa đến Quảng Nam, Phú Yên chưa kể thời đó một số dân của ta đã vào khai hác miền Nam theo chân Công nương Ngọc Vạn, cho nên đã có lần Phúc Lan đánh chiếm được  Bắc Bố Chính rồi cũng trả lại cho họ Trịnh.

Lý Thánh Tông thiếu mất đoạn tình ở trước tuổi 40, Phúc Lan đã bổ túc cuộc tình ở lứa tuổi thanh xuân, sôi nổi, mãnh liệt, nhưng chỉ đến tuổi 39 thì thôi. Đến tuổi này Phúc Lan đã rẽ ngang, ông không còn say mê chung thủy với Hiếu Chiêu, cuộc tình của ông đã có bước ngoặt.

Tống Thị đã bước vào đời Phúc Lan với xâu chuỗi bách hoa trăm sắc trăm hương nồng nàn quyến rũ làm cho Phúc Lan như si như dại, hẳn bà Thượng Dương ở dưới tuyền đài cũng hả dạ, Tống Thị đã giành được cái gì bà đã mất. Nhưng lần này Hiếu Chiêu Hoàng Hậu con người đoan trang hiền thục đã không phạm sai lầm như Ỷ Lan, hình như có một sự điều chỉnh, bà chỉ sống âm thầm trong cung cấm không để cho quyền lực cám dỗ, bà để Tống Thị tự do. Hiếu Chiêu không sát hại Tống Thị thảm khốc như Ỷ Lan đã nhẫn tâm ra tay với Thượng Dương Hoàng Thái Hậu.

 

 

 

                                                                                  Châu Yến Loan

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2017(Xem: 8061)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
03/11/2017(Xem: 8636)
Thoại Ngọc Hầu, một công thần suốt đời tận tuỵ hy sinh vì cơ đồ của nhà Nguyễn. Sinh thời ông rất được các vua Gia Long, Minh Mệnh trọng dụng nhưng khi mất đi chưa được bao lâu thì cũng chính Minh mệnh đã hài tội ông, còn các sử quan nhà Nguyễn thì trong Đại Nam Chính Biên liệt truyện, theo lối viết Xuân Thu đã xếp ông vào nhóm công thần trọng tội: Lê văn Quân, Nguyễn văn Thoại, Lưu Phước Tường, Đặng Trần Thường, Đỗ Thanh Nhân.( ĐNLT, T2, tr 511, nxb Thuận Hoá 2006)
03/11/2017(Xem: 4151)
Huỳnh thị Bảo Hòa là một trong những người phụ nữ đầu tiên in tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ. Bà tên thật là Huỳnh thị Thái, sinh năm 1896, quê xã Hòa Minh huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam ( Nay thuộc thành phố Đà Nẵng). Thân phụ của bà là ông Huỳnh Phúc Lợi, giữ một chức quan võ nhỏ dưới triều Nguyễn. Thân mẫu là bà Bùi thị Trang. Bà Huỳnh thị Bảo Hòa là một phụ nữ tiến bộ thời bấy giờ. Bà thông thạo cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, hưởng ứng phong trào cắt tóc ngắn, đi xe đạp, tham dự đám tang cụ Phan Châu Trinh, tích cực hoạt động xã hội, diễn thuyết để cổ xúy cho việc thăng tiến phụ nữ, viết báo, viết tiểu thuyết, kịch bản tuồng hát bội, khảo luận. Vào giữa tháng 6 năm 1931, nhân chuyến đi nghỉ mát ở Bà Nà, bà đã viết Bà Nà du ký đăng trên tạp chí Nam Phong số 163, tháng 6 năm 1931 để giới thiệu với độc giả một thắng cảnh thiên nhiên mà theo bà đó là một cảnh Bồng lai ở dưới trần thế.
23/09/2017(Xem: 22209)
The Vietnam War - Chiến Tranh Việt Nam (Trọn bộ 10 tập), đạo diễn: Ken Burns và Lynn Novick - Buổi ra mắt và thảo luận về phim “The Vietnam War” đêm thứ Ba 12/9 của hai đạo diễn Mỹ nổi tiếng về các phim tài liệu có giá trị lịch sử: Ken Burns và Lynn Novick diễn ra tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Kennedy ở thủ đô Washington. Dẫn đầu cuộc thảo luận, ngoài hai nhà đạo diễn và MC là ký giả Martha Raddatz của chương trình tin tức đài ABC, còn có 3 khách mời đặc biệt, Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, cả 3 đều là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam.
18/08/2017(Xem: 5169)
Ba năm, sau khi Pháp lập Đồng Khánh lên ngôi, thực hiện ý định giành dân, lấn đất của nhà cầm quyền thuộc địa, ngày 19-7-1888, tại Paris, Tổng thống Pháp đã ký một sắc lệnh thiết lập ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng. Dưới sức ép của Pháp, ngày 27 tháng 8 năm Mậu Tý (3-10-1888) vua Đồng Khánh buộc phải ký một đạo dụ gồm 3 khoản, nhượng chủ quyền ba thành phố ấy cho Pháp. Thành phố Đà Nẵng được ra đời, mang tên chính thức là Tourane suốt 62 năm Pháp thuộc từ năm 1888 đến năm 1950 là năm Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính quyền Bảo Đại. Sách Đại Nam thực lục ghi : “Mậu Tý , Đồng Khánh năm thứ 3 (1888), mùa thu tháng 8 Lấy đất thuộc Đà Nẵng (bờ biển ở Quảng Nam) làm nhượng địa của người Pháp”. ((ĐNTL, T9, tr 429). Người đại diện Nam triều ký vào bản đồ vẽ phần đất của Đà Nẵng được trích ra làm nhượng địa của Pháp là Chánh sứ Nha Hải phòng Quảng Nam Thái Văn Trung.
22/06/2017(Xem: 4944)
Trường Tỉnh Quảng Nam được thành lập năm 1802, dưới triều Gia Long, tại xã Câu Nhí, huyện Diên Phước, đến năm 1835 triều Minh Mạng được dời về Thanh Chiêm. Tuy ra đời muộn màn nhưng nhờ có sự tận tâm dạy dỗ của các vị Đốc học tài giỏi và truyền thống hiếu học, cần cù chăm chỉ của các Nho sinh nên trường Đốc Thanh Chiêm là lò luyện nhân tài cho đất nước
06/06/2017(Xem: 8488)
Câu chuyện ly kỳ về việc thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền được ghi chép lại trong “Thiền Uyển tập anh” đã mang lại cho người thời nay thật nhiều câu hỏi. Phong thủy có thật hay không? Định mệnh có thật hay không? Đức tin là thật hay là hư ảo? “Thiền uyển tập anh” hay “Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục” là tài liệu lịch sử cổ nhất của Phật giáo Việt Nam, ghi lại tương đối hệ thống các tông phái Thiền học và sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng từ cuối thế kỷ 6 đến thế kỷ 13, tức là vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý và một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu triều Trần.
20/05/2017(Xem: 6621)
Đa số các ân sư của trường đốc Thanh Chiêm là người Quảng Nam nhưng cũng có những vị ở ngoại tỉnh được bổ dụng đến. Dù sinh ra trên quê hương nào nhưng khi đảm nhận chức vụ cao quý này, các quan Đốc học đều dốc hết tài đức của mình vào sự nghiệp trồng người. Chính vì thế mà Trường Đốc Thanh Chiêm dưới thời phong kiến nhà Nguyễn đã lừng danh là lò luyện nhân tài không chỉ cho Quảng Nam-Đà Nẵng mà còn cho cả nước. Nhiều bậc đại khoa, nhiều lãnh tụ phong trào Cần Vương như Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, nhiều chí sĩ cách mạng như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đã trưởng thành từ ngôi trường này. Dưới đây là một số vị đã làm Đốc học ở Quảng Nam :
18/04/2017(Xem: 9891)
Tập sách này gồm nhiều bản văn được chuyển dịch và trình bày kèm theo nguyên tác Anh ngữ, là các tài liệu trước đây vốn thuộc loại hồ sơ mật hoặc tối mật, nghĩa là chỉ dành riêng cho những người có trách nhiệm mà hoàn toàn không được phổ biến đến công chúng. Phần lớn các tài liệu đó là của chính phủ Mỹ, như các Công điện, Bản Ghi nhớ, Điện tín, Phúc trình... Tài liệu có nguồn từ Bộ Ngoại Giao Mỹ được lấy từ FRUS; ngoài ra còn có các tài liệu từ Tòa Bạch Ốc (Hội đồng An Ninh Quốc Gia NSA), Bộ Quốc Phòng (Pentagon Papers), CIA (tại Sài Gòn và tại Langley), và từ Thượng Viện (Select Committee to Study Governmental Operations).
14/04/2017(Xem: 5049)
Trường tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng là trường Đại học đầu tiên của tỉnh nhà, nơi hội tụ những quan Đốc học tài ba, đã đào tạo nên nhiều thế hệ Nho sinh xuất sắc hết lòng phục vụ nhân dân, những chí sĩ cách mạng giàu lòng yêu nước sẵn sàng hiến dâng trọn cuộc đời cho tổ quốc Việt Nam như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp v. v… Dưới thời nhà Nguyễn, trường tỉnh Quảng Nam đặt tại làng Thanh Chiêm, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn. Trường do một vị Đốc học điều hành nên nhân dân quen gọi là trường Đốc Thanh Chiêm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567