Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người ký bản đồ thành lập thành phố Đà Nẵng

18/08/201718:36(Xem: 5181)
Người ký bản đồ thành lập thành phố Đà Nẵng
NGƯỜI KÝ BẢN ĐỒ LẬP THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
 
Châu Yến Loan

 

 

Ba năm, sau khi Pháp lập Đồng Khánh lên ngôi, thực hiện ý định giành dân, lấn đất của nhà cầm quyền thuộc địa, ngày 19-7-1888, tại Paris, Tổng thống Pháp đã ký một sắc lệnh thiết lập ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng.

Dưới sức ép của Pháp, ngày 27 tháng 8 năm Mậu Tý (3-10-1888) vua Đồng Khánh buộc phải ký một đạo dụ gồm 3 khoản, nhượng chủ quyền ba thành phố ấy cho Pháp.

Thành phố Đà Nẵng được ra đời, mang tên chính thức là Tourane suốt 62 năm Pháp thuộc từ năm 1888 đến năm 1950 là năm Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính quyền Bảo Đại.

Sách Đại Nam thực lục ghi :

“Mậu Tý , Đồng Khánh năm thứ 3 (1888), mùa thu tháng 8

Lấy đất thuộc Đà Nẵng (bờ biển ở Quảng Nam) làm nhượng địa của người  Pháp”. ((ĐNTL, T9, tr 429).

Người đại diện Nam triều ký vào bản đồ vẽ phần đất của Đà Nẵng được trích ra làm nhượng địa của Pháp là Chánh sứ Nha Hải phòng Quảng Nam Thái Văn Trung.

 

 Da Nang

Thái Văn Trung người xã Long Ốc, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là 

xã Sơn Long, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tỉnh)

Tổ tiên của ông vốn họ Mạc ở Hải Dương. Vào khoảng thế kỷ XVI, họ Mạc suy vi, bị truy lùng gắt gao nên Mạc Đăng Bình, Hoàng tử thứ 16 của Mạc Phúc Nguyên, dẫn một đoàn con cháu chạy về tổng Thái Xá, tỉnh Nghệ An đổi thành họ Thái để giấu tông tích, tránh thảm họa diệt vong. Họ định cư lập nghiệp rồi phát triển dần ra các vùng phụ cận. Một nhánh đến khai phá vùng Long Ốc- Hà Tĩnh lập thành chi họ Thái tại đây.

Thái Văn Trung sinh năm Canh Tuất (1850), tên là Bá Viên, hiệu là Tiến Tự, lại có hiệu Long Xuyên.

Năm 26 tuổi, ông thi Hương khoa Bính Tý, Tự Đức thứ 29 (1876) tại trường Nghệ An, đậu Cử nhân. Ông được bổ làm Tri huyện Bình Sơn, Tri huyện Mộ Đức tại Quảng Ngãi, rồi thăng Chánh sứ Nha Hải phòng tỉnh Quảng Nam. Hải phòng sứ là chức quan đứng đầu Nha Hải phòng. Đó là một cơ quan đặt tại các tỉnh có cửa biển quan trọng để lo việc phòng thủ mặt biển. Cơ quan này mới ra đời từ thời Tự Đức sau khi Pháp tấn công Đà Nẵng năm 1858.

Nha Hải phòng Quảng Nam đóng tại xã Nam Dương, huyện Hòa Vang, được đặt ra từ năm Tự Đức thứ 27 (1874), sau bãi bỏ. Đến năm Ất Dậu (1885) niên hiệu Đồng Khánh, thiết lập lại, có đặt 1 Chánh phòng sứ, 1 Phó phòng sứ. Năm Thành Thái thứ 4 (1892) dời qua thôn Bình Thuận, năm thứ 10 giảm bỏ.

Năm 1888, ông đã ký bản đồ cắt năm xã của huyện Hòa Vang nhượng cho Pháp để lập thành phố Đà Nẵng.

Về sự kiện này, sách Đại Nam Thực Lục ghi : “ Khi trước, viên Khâm sứ Hách –tô tới sơn phòng ấy, lấy các xứ thuộc địa phận Đà Nẵng (từ cầu Thương chính đến trụ sở viên Châu sứ (địa phận thôn Thạch Thang), lại định đặt sở Dây thép ở xã Hải Châu chính); trích ra làm đất nhượng địa, vẽ thành đồ bản, yêu cầu Phòng sứ là Thái Văn Trung đóng dấu và ký để làm bằng; viên Phòng sứ ấy tạm ký xong, rồi đem việc tư đi để xét” (ĐNTL, T9, tr 429).

Theo phụ đính của đạo dụ năm Mậu Tý ( 03-10-1888), năm xã của huyện Hòa Vang gồm Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây nằm bên tả ngạn sông Hàn được cắt giao cho Pháp để lập “nhượng địa” Tourane với diện tích 10.000 ha.

Ngày 24 tháng 5 năm 1889, Toàn quyền Đông Dương Étienne Richaud ra nghị định thành lập thành phố Tourane (Đà Nẵng) thuộc tỉnh Quảng Nam. Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương, đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý do Khâm sứ đề nghị và Toàn quyền bổ nhiệm.

  

Sau khi Đà Nẵng thành nhượng địa của Pháp, ông được chuyển về làm Thương Tá Tỉnh vụ Hà Tĩnh, được cử làm Tán Tương quân vụ, rồi thăng Bố Chánh Quảng Bình.

Khi làm quan tại Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, có lần ông đã chống lại viên Công sứ Pháp tên là “Xét- Chê”:

Trong tập tự truyện của ông Thái Văn Chánh, Án sát Quảng Nam, con trai của ông Thái Văn Trung, có ghi: “ Trong một buổi hội thương giữa tòa Công sứ, cụ cãi lại viên Công sứ, không khí rất căng thẳng khiến hai bên vừa đứng dậy thì cụ Hồ Văn Thức chạy lại bồng cụ ta chạy ra xe ngựa về tỉnh. Cụ trình sự việc về triều đình và viên Công sứ cũng làm báo cáo về tòa Khâm sứ. Sau cuộc thanh tra của cấp trên, cụ không có lỗi … được giữ nguyên hàm”.

Sau sự việc này, ông xin chuyển về làm Đốc học Nghệ An để được gần gũi phụng dưỡng mẹ già.

Khi làm Đốc học Nghệ An, mỗi buổi sáng ông ra công đường giảng sách cho học trò. Hằng tháng vào ngày rằm và mồng một thì tổ chức bình văn,  các quan Huấn đạo, Giáo thọ ở các phủ huyện thường có mặt. Đôi khi các quan đầu tỉnh như Bố chánh, Án sát cũng tham gia. Trong những buổi sinh hoạt này, thầy trò bàn bạc, trao đổi nghĩa lý với nhau  thân mật, vui vẻ, sĩ tử về dự rất đông.

Hồi đó Đào Tấn làm Tổng Đốc Nghệ An- Hà Tĩnh thường hay qua lại thân tình với Thái Văn Trung vì cả hai đều say mê văn chương và nghệ thuật Hát Tuồng. Đào Tấn đã cho 2 người con trai của mình là Đào Như Thạch và Đào Như Tuyên  trú học tại nhà của Đốc học Thái Văn Trung, cả hai đều thi đỗ Cử nhân.

Còn Bố chánh Tôn Thất Niêm, Đốc học Thái Văn Trung và Lãnh binh Dương Biểu thì đối với nhau như ba anh em kết nghĩa Đào viên.

Khoa thi năm Quý Mão, Thành Thái thứ 15 (1903) ông được cử làm Giám khảo, sung chức Khâm sai trường thi Hương Thừa Thiên, Phó chủ khảo. Sau kỳ thi, đình thần tiến cử ông làm Tham biện nội các nhưng Tòa Khâm không chấp thuận. Có người khuyên ông nên qua yết kiến Khâm sứ, nhưng ông nhất định không đi.

Khoa Kỷ Dậu, Duy Tân thứ 3 (1909), ông được cử làm Khâm sai trường thi Thừa Thiên, Chánh chủ khảo. Ông nổi tiếng là công bình.

Thượng thư Bộ Học Cao Xuân Dục, là bạn đồng niên và bạn thân với ông, quý mến tài đức của ông đã nhiều lần thương thuyết để cho ông giữ các chức: lần thứ nhất đề nghị cho ông làm Thị Lang Bộ học, lần thứ hai đề nghị để ông làm Thị Lang Bộ Lễ và lần sau cùng các ông: Lại bộ Thượng thư Trương Như Cương, Hộ Bộ Thượng thư Trần Đình Phác, Lễ bộ Thượng thư Huỳnh Côn, Binh Bộ thượng thư Lê Trinh, Hình bộ Thượng thư Tôn Thất Hân, Công Bộ Thượng thư Nguyễn Hữu Bài và Học bộ Thượng thư Cao Xuân Dục, đề nghị cho ông giữ chức Tham tá các vụ. Nhưng viên Quyền Khâm sứ lúc đó là “Xét Chê”, người từng chống đối ông tại Quảng Bình những năm về trước đã bác bỏ đề xuất của 7 vị đình thần.

Trong bữa tiệc tiễn biệt ông trở về quê hương, ông có bài thơ lưu giản :

 

“Các cụ thương ta đã hết lòng.

Thương đi, thương lại vẫn không xong,

Tài hèn, sức mọn, âu đành phận,

Tháng đợi, năm chờ, những luống công.

Thánh đế linh xăm chưa thấy nghiệp,

Quân vương điềm mộng vẫn còn mong,

Cho hay vận có khuôn hồng tạo,

Bay nhảy nào ai thoát khỏi vòng.”

 

Ông được thăng hàm “Thái Thường Tự khanh”( Chánh tam phẩm) và về hưu trí sau 18 năm làm quan. Ông không được lãnh lương hưu vì còn thiếu 2 năm công vụ.

Khi làm quan, ông Thái Văn Trung rất thanh liêm nên đến tuổi già đời sống có phần khó khăn, chật vật.

Ông mất ngày 1 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1922), thọ 73 tuổi. An táng tại nghĩa trang Khe Mây, núi Mồng Gà, xã Sơn Long, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

 

Đời Thành Thái, ngày 25 tháng 2 năm Canh Tý (15-01-1901), vua bị ép ký  một đạo dụ nữa, nới rộng nhượng địa Đà Nẵng  thêm 14 xã:

“ Vào ngày 27 tháng 8 năm Đồng Khánh thứ 3, đức Tiên Đế đã chuyển nhượng lãnh thổ của thành phố Đà Nẵng làm nhượng địa Pháp và đã nhượng trọn quyền cho chính phủ Pháp.

Hôm nay, Hội Đồng Cơ Mật đã trình cho Trẫm về các đại công trình sắp được chính phủ Bảo hộ thực hiện tại Đà Nẵng, như đào một hải cảng lớn, xây các kho hàng và lập các đường hỏa xa, sẽ đem lại cho nền thương mãi một sự mở mang rộng lớn. Vậy cần phải hổ trợ cho công trình lớn lao và làm đẹp thành phố này.

Tuy nhiên, Trẫm xét thấy trong hiện trạng, các cơ sở dự tính sẽ được thực hiện đều nằm ngoài phạm vi nhượng địa.

Vì các lẽ đó, Trẫm phê chuẩn nới rộng lãnh thổ đã nhượng và phê định giới hạn mới cho nhượng địa Pháp ở Đà Nẵng theo bản đồ đính hậu.

Việc di nhượng này được thực hiện trong những điều khoản đã ghi của dụ ngày 3-10- 1888 (khoản 2) và dụ ngày 27-9-1897

Khâm thử”



Da Nang-5

Đà Nẵng ngày nay  (http://www.danangtourism.gov.vn/portal/page/portal/dulich)

 




Theo đạo dụ này 8 xã thuộc huyện Hòa Vang nằm bên tả ngạn sông Hàn là Xuân Đán, Thạc Gián, Liên Trì, Bình Thuận, Xuân Hòa, Thanh Khê Đông, Hà Khê, Yên Khê và và 6 xã thuộc huyện Diên Phước bên hữu ngạn sông Hàn là Mỹ Khê, An Hải, Tân Thái, Nại Hiên Đông, Mân Quan, Vĩnh Yên đều sáp nhập vào nhượng địa.

Ngày 19 tháng 9 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách Đà Nẵng khỏi tỉnh Quảng Nam để trở thành một đơn vị hành chính độc lập gồm 19 xã. Lãnh thổ của thành phố được nới rộng về phía Tây và Tây Bắc, còn phía Đông thì đã vượt sang hữu ngạn sông Hàn chiếm trọn bán đảo Sơn Trà và dải đất nối bán đảo này với đất liền.

 

Hình thành từ năm 1888 đến nay, trải qua hơn 100 năm, thành phố Đà Nẵng không ngừng phát triển đi lên về mọi mặt. Ngày nay Đà Nẵng trở thành đô thị loại một đứng thứ 3 của tổ quốc sau thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

 

 

 Châu Yến Loan

 

Tham khảo: 

- Đại Nam thực lục (ĐNTL),T 9, Quốc sử quán triều Nguyễn, nxb Giáo Dục

- Đại Nam nhất thống chí, quyển thứ 5, Tỉnh Quảng Nam

- Gia phả họ Thái xã Sơn Long, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

- Lịch sử Đà Nẵng 1306-1975, Võ văn Dật

 

 

 

 

 

 

Ý kiến bạn đọc
29/12/201923:22
Khách
Tôi là chắt nội của Cụ Thái Văn Trung (ông nội tôi là con trai đầu của Cụ với bà Cụ bà Giao Thi Dung).Rất cảm ơn tác giả đã cho hậu duệ chúng tôi biết thêm về Cụ của chúng tôi. Nếu bà cho phép, tôi rất muốn được gặp bà tại Sài Gòn để tìm hiểu thêm về Cụ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2017(Xem: 8109)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
03/11/2017(Xem: 8649)
Thoại Ngọc Hầu, một công thần suốt đời tận tuỵ hy sinh vì cơ đồ của nhà Nguyễn. Sinh thời ông rất được các vua Gia Long, Minh Mệnh trọng dụng nhưng khi mất đi chưa được bao lâu thì cũng chính Minh mệnh đã hài tội ông, còn các sử quan nhà Nguyễn thì trong Đại Nam Chính Biên liệt truyện, theo lối viết Xuân Thu đã xếp ông vào nhóm công thần trọng tội: Lê văn Quân, Nguyễn văn Thoại, Lưu Phước Tường, Đặng Trần Thường, Đỗ Thanh Nhân.( ĐNLT, T2, tr 511, nxb Thuận Hoá 2006)
03/11/2017(Xem: 4156)
Huỳnh thị Bảo Hòa là một trong những người phụ nữ đầu tiên in tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ. Bà tên thật là Huỳnh thị Thái, sinh năm 1896, quê xã Hòa Minh huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam ( Nay thuộc thành phố Đà Nẵng). Thân phụ của bà là ông Huỳnh Phúc Lợi, giữ một chức quan võ nhỏ dưới triều Nguyễn. Thân mẫu là bà Bùi thị Trang. Bà Huỳnh thị Bảo Hòa là một phụ nữ tiến bộ thời bấy giờ. Bà thông thạo cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, hưởng ứng phong trào cắt tóc ngắn, đi xe đạp, tham dự đám tang cụ Phan Châu Trinh, tích cực hoạt động xã hội, diễn thuyết để cổ xúy cho việc thăng tiến phụ nữ, viết báo, viết tiểu thuyết, kịch bản tuồng hát bội, khảo luận. Vào giữa tháng 6 năm 1931, nhân chuyến đi nghỉ mát ở Bà Nà, bà đã viết Bà Nà du ký đăng trên tạp chí Nam Phong số 163, tháng 6 năm 1931 để giới thiệu với độc giả một thắng cảnh thiên nhiên mà theo bà đó là một cảnh Bồng lai ở dưới trần thế.
23/09/2017(Xem: 22221)
The Vietnam War - Chiến Tranh Việt Nam (Trọn bộ 10 tập), đạo diễn: Ken Burns và Lynn Novick - Buổi ra mắt và thảo luận về phim “The Vietnam War” đêm thứ Ba 12/9 của hai đạo diễn Mỹ nổi tiếng về các phim tài liệu có giá trị lịch sử: Ken Burns và Lynn Novick diễn ra tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Kennedy ở thủ đô Washington. Dẫn đầu cuộc thảo luận, ngoài hai nhà đạo diễn và MC là ký giả Martha Raddatz của chương trình tin tức đài ABC, còn có 3 khách mời đặc biệt, Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, cả 3 đều là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam.
22/06/2017(Xem: 4948)
Trường Tỉnh Quảng Nam được thành lập năm 1802, dưới triều Gia Long, tại xã Câu Nhí, huyện Diên Phước, đến năm 1835 triều Minh Mạng được dời về Thanh Chiêm. Tuy ra đời muộn màn nhưng nhờ có sự tận tâm dạy dỗ của các vị Đốc học tài giỏi và truyền thống hiếu học, cần cù chăm chỉ của các Nho sinh nên trường Đốc Thanh Chiêm là lò luyện nhân tài cho đất nước
06/06/2017(Xem: 8490)
Câu chuyện ly kỳ về việc thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền được ghi chép lại trong “Thiền Uyển tập anh” đã mang lại cho người thời nay thật nhiều câu hỏi. Phong thủy có thật hay không? Định mệnh có thật hay không? Đức tin là thật hay là hư ảo? “Thiền uyển tập anh” hay “Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục” là tài liệu lịch sử cổ nhất của Phật giáo Việt Nam, ghi lại tương đối hệ thống các tông phái Thiền học và sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng từ cuối thế kỷ 6 đến thế kỷ 13, tức là vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý và một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu triều Trần.
20/05/2017(Xem: 6643)
Đa số các ân sư của trường đốc Thanh Chiêm là người Quảng Nam nhưng cũng có những vị ở ngoại tỉnh được bổ dụng đến. Dù sinh ra trên quê hương nào nhưng khi đảm nhận chức vụ cao quý này, các quan Đốc học đều dốc hết tài đức của mình vào sự nghiệp trồng người. Chính vì thế mà Trường Đốc Thanh Chiêm dưới thời phong kiến nhà Nguyễn đã lừng danh là lò luyện nhân tài không chỉ cho Quảng Nam-Đà Nẵng mà còn cho cả nước. Nhiều bậc đại khoa, nhiều lãnh tụ phong trào Cần Vương như Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, nhiều chí sĩ cách mạng như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đã trưởng thành từ ngôi trường này. Dưới đây là một số vị đã làm Đốc học ở Quảng Nam :
18/04/2017(Xem: 9904)
Tập sách này gồm nhiều bản văn được chuyển dịch và trình bày kèm theo nguyên tác Anh ngữ, là các tài liệu trước đây vốn thuộc loại hồ sơ mật hoặc tối mật, nghĩa là chỉ dành riêng cho những người có trách nhiệm mà hoàn toàn không được phổ biến đến công chúng. Phần lớn các tài liệu đó là của chính phủ Mỹ, như các Công điện, Bản Ghi nhớ, Điện tín, Phúc trình... Tài liệu có nguồn từ Bộ Ngoại Giao Mỹ được lấy từ FRUS; ngoài ra còn có các tài liệu từ Tòa Bạch Ốc (Hội đồng An Ninh Quốc Gia NSA), Bộ Quốc Phòng (Pentagon Papers), CIA (tại Sài Gòn và tại Langley), và từ Thượng Viện (Select Committee to Study Governmental Operations).
14/04/2017(Xem: 5060)
Trường tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng là trường Đại học đầu tiên của tỉnh nhà, nơi hội tụ những quan Đốc học tài ba, đã đào tạo nên nhiều thế hệ Nho sinh xuất sắc hết lòng phục vụ nhân dân, những chí sĩ cách mạng giàu lòng yêu nước sẵn sàng hiến dâng trọn cuộc đời cho tổ quốc Việt Nam như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp v. v… Dưới thời nhà Nguyễn, trường tỉnh Quảng Nam đặt tại làng Thanh Chiêm, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn. Trường do một vị Đốc học điều hành nên nhân dân quen gọi là trường Đốc Thanh Chiêm.
07/04/2017(Xem: 6465)
Sáng nay, mồng 10/03/Đinh Dậu (06/04/2017), UBND tỉnh Khánh Hòa đã tổ chức lễ giỗ Đức Quốc tổ Hùng Vương tại đền Hùng Vương (số 173 đường Ngô Gia Tự, phường Tân Lập, TP.Nha Trang).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567