Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết 2: Cuộc kết tập tại thành Vương Xá

05/01/201202:25(Xem: 5199)
Tiết 2: Cuộc kết tập tại thành Vương Xá

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm

Thích Tâm Trídịch

---o0o---

CHƯƠNG III

NGUYÊN THỈ PHẬT GIÁO VÀ TAM TẠNG KINH ĐIỂN

TIẾT II: CUỘC KẾT TẬP TẠI THÀNH VƯƠNG XÁ

Sao gọi là kết tập? Kết tập (Samgìti) có hai nghĩa, một là tụng (một người), hai là hội tụng (nhiều người cùng đọc tụng). Đại chúng suy tiến những vị tinh thông về pháp (Sharma), và về luật (Vinaya), những vị này tuần tự tuân theo sự phát vấn của Thượng tọa Tỳ kheo Ca Diếp. Theo đó, vị nào tự mình đã từng nhiều lần nghe Phật thuyết giảng kinh, luật thì hãy đọc tụng lại để đại chúng cùng nghe và thẩm định. Khi câu văn đã được chính túc mới đi đến biên tập, và đây là định bản Thánh điển sớm nhất được thành tựu.

Nhân vì, chẳng lâu sau Phật nhập diệt, có Tỳ kheo ngu si lại ưa thích nói nhảm rằng: “Vị trưởng lão kia, Phật thường dạy: nên làm như thế này, Không nên làm như thế kia; nên học như thế này, không nên học như thế kia. Chúng tôi hiện giờ vừa thoát khỏi sự phiền khổ, và tự mình làm theo những gì mình thích, không còn bị câu thúc như trước”(9).

Sau khi nghe những luận điệu này, bấy giờ ngài Tôn giả Ca Diếp cảm thấy không vui. Lập tức ngài quyết tâm triệu tập đại hội để kết tập di giáo của đức Phật. Nhân cuộc kết tập này, Tôn giả Ca Diếp mới hoàn tất việc làm sáng tỏ giáo pháp Phật sau khi Ngài nhập Niết bàn, đồng thời nhiều vị quốc vương muốn dành phần nghênh đón xá lợi của Phật. Qua đó, ngài dò xét được những hành động có ý nghĩa của họ.

Theo “Đại Sử” được lưu truyền tại Tích Lan, chương ba của bộ sử này thuật rằng: Sau Phật nhập Niết bàn, Tôn giả Ca Diếp đi đến thành Vương Xá, bấy giờ chủ thành Vương Xá là vua A Xà Thế, nhà vua là người ngoại bộ rất đắc lực, do đó vua giúp ngài Ca Diếp kiến lập tịnh xá cạnh núi Tỳ Bà La (Vebhàra) ở trước Thất Diệp Quật (Sapta Parnaguhà). Tại đây Tôn giả Ca Diếp tập hợp được năm trăm Tỳ kheo và tổ chức an cư vào mùa mưa lần thứ nhất sau Phật nhập diệt. Trong mùa an cư này, từ tháng thứ hai trở lui Tôn giả Ca Diếp bắt đầu mở cuộc kết tập kéo dài trong bảy tháng (Bắc truyền cho là có ba tháng), vị Tôn giả đầu tiên được yêu cầu tụng xuất Luật tạng là ngài Ưu Ba Li. Thứ đến là Tôn giả A Nan tụng xuất Kinh tạng (Pháp tạng). Việc làm này về sau sử Phật giáo gọi là “Ngũ Bách Tập Tỳ Ni” hoặc gọi là “Vương Xá Thành Kết Tập” lại được danh xưng là “Đệ Nhất Kết Tập”.

- Kinh Luật có từ thời nào?

Pháp (giáo pháp kinh) và Luật (giới luật) tuy mới được định hình sau lần kết tập thứ nhất. Nhưng từ thời đức Thích Tôn còn tại thế thì các luật sư cũng đã chuyên tụng Luật. Đó là cứ mỗi nửa tháng Bố tát một lần, các Tỳ kheo tùy theo địa bàn cư trú đều phải tụ hội lại để tụng giới. Đồng thời, khi Phật tại thế cũng có những Thánh điển được đem ra đọc tụng. Như trong “Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nai Da” quyển 44(10) chép là có vị trưởng giả yêu cầu quốc vương chuẩn hứa cho ban đêm được đốt đèn học kinh Phật. Lại cũng sách vừa dẫn, quyển 48(11), ghi “Cam Dung phu nhân ban đêm chong đèn đọc kinh Phật”. Lại nói: “Phu nhân bảo sao chép kinh Phật, và nói với các vị đại thần, hãy dùng giấy mực, viết rõ lời kinh, khiến nhiều người tiện lợi đọc tụng”. Khảo sát sự thành lập của Hữu Bộ Luật thì thấy rằng, vào thời Bộ phái Phật giáo những ghi chép vừa nêu trên là có tính truyền thuyết. Nhưng lúc Phật tại thế, việc đọc tụng kinh luật là điều mà các Tỳ kheo thường làm nên không phải ngờ. Do đó, có người cho rằng: “thời Phật còn tại thế, cũng đủ tập thành Thánh điển theo loại và bộ, ít ra là đã có: Pháp cú, Nghĩa Phẩm, Ba La Diên, Ô Đà Nam, Ba La Đề Mộc Xoa, cả thảy năm thứ(12).

Chưa hẳn lúc ban sơ đức Thích Tôn quyết định khi nào thì thuyết pháp, khi nào thì chế định giới luật. Mà qua thời gian, nhân vì phải đối diện với đủ thứ vấn đè cần phải xử đoán, phải giải thích và qui đinh, dàn dà đưa đến việc phải xem những sinh hoạt nào cần qui thành qui chế, những pháp nào là pháp ly dục cần ghi nhớ để tu định. Hậu thế lấy Kinh, Luật, Luận phối hợp lại thành Giới - Định - Huệ. Cũng như chưa hẳn đương thời đã đưa ra những qui định cứng nhắc như về sau này. Duy có điều khi nói về Luật, thì giới là chính, khi nói về Kinh, thì định là chính. Còn Huệ thì do giới và định mà sản sinh.

- Nội dung kết tập

Kết tập lần thứ nhất. Cứu cánh của lần kết tập như thế nào?

Đại loại mà nói, ấy là tam tạng Kinh, Luật, Luật. Trong “Tăng Nhất A Hàm, Tự Phẩm” có thêm Tạp Tạng mà thành bốn Tạng, luận Phân Biệt Công Đức, và luận Thành Thực. Lại lấy tạp Tạng chia làm Bồ Tát Tạng mà thành năm Tạng.

Nói đến kinh Phật là nói đến bộ A Hàm; nhưng kinh A Hàm hiện đang lưu truyền e có sự “thêm bớt”. Kinh A Hàm hiện nay là thánh điển thuộc thời đại Bộ phái Phật Giáo và năm Ni Ca Da (Nykaya) của văn tự Ba Lị (tương đương bộ A Hàm của Bắc truyền) có ít nhiều không giống nhau.

Nói đến Luật, là chỉ cho luật Bát Thập Tụng. Sở dĩ có danh xưng này là vì ngài Ưu Ba Li phải tám mươi lần tụng mới hoàn thành được Luật tạng. Tạng Luật này hiện nay không tìm thấy. Các tạng Luật hiện đang lưu truyền đều thuộc thời đại bộ phái, và được các phái đọc tụng. Do đó, về nội dung hơi có phần gia, giảm.

Luận tạng được tụng xuất như thế nào? Tuy căn cứ theo luật Thiện Kiến của Nam truyền (Theravadha), và luật Tứ Phần của Pháp - Tạng bộ, cả hai có nói đến tạng Tỳ Nại Da, nhưng không cho biết ai là người tụng xuất. Trong khi đó “Thập Tụng Luật” thì nói Tôn giả A Nan là người tụng xuất A Tỳ Đàm tạng, và luận Đại Trí Độ cũng đồng ý như vậy. Còn “Căn bản Hữu Bộ Luật Tạp Sự” thì nói Đại Ca Diếp là người tụng xuất Ma Đắc Lặc Già; Dulva II (Life of Buddha, p.150ff) được truyền ở Tây Tạng cũng đồng ý khi nói Đại Ca Diếp là người tự mình kết tập Ma Đát Lý Ca. Tất cả các ghi nhận trên chỉ là truyền thuyết được xuất phát từ Hữu Bộ Thí Dụ Sư. Miến Điện thì cho rằng ngài A Na Luật là người tụng xuất bảy Luận. Trong khi “Bộ Chấp Dị Luận Sớ” do Tam Tạng Chơn Đế truyền và dịch thì nói Phú Lâu Na là người đọc tụng A Tỳ Đàm tụng. “Đại Đương Tây Vực Ký” quyển chín(13) của Huyền Trang nói là, có cả trăm, cả nghìn người của Đại Chúng Bộ không tham dự vào cuộc kết tập do ngài Ca Diếp triệu tập, mà họ tụ hội riêng, và kết tập thành năm tạng Kinh, Luật; vì chỉ là truyền thuyết được viết ra từ các Bộ phái và hậu thế; vì vậy, nên có sự khác nhau khá nhiều. Nhân đó, đối với cuộc kết tập tại thành Vương Xá, có thuyết chủ trương là có kết tập Luận tạng, điều này khiến các học giả cận đại không có cơ sở để tin.

- Những Người Dự Cuộc Kết Tập Lần Thứ Nhất

Như chúng ta biết, cuộc kết tập tại thành Vương Xá là do ngài Ca Diếp đứng ra mời thỉnh, và chỉ có năm trăm vị Thượng tọa Tỳ kheo phó hội. Theo “Ma Ha Tăng Kỳ Luật” (còn gọi là Tăng Kỳ Luật), thì bấy giờ có nhiều vị Thượng tọa Tỳ kheo đã nhập diệt, như ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên khi nghe tin Phật sắp nhập diệt, hai ngài bèn xin nhập diệt trước Phật. Tiếp đó những vị đại đệ tử khi nghe tin Phật đã nhập Niết bàn, các ngài có vẻ lưỡng lự, nhưng rồi nối tiếp nhau nhập diệt. Do đó, những vị được mời tham dự Đại hội kết tập chỉ có bốn trăm chín mươi chín, Tôn giả A Na cơ hồ như bị ngài Ca Diếp mời ra khỏi đại hội, bởi ngài là người chưa “ly dục” nên không đủ tư cách để phó hội. Vì thế, ngài A Nan quyết chí ly dục, và trở thành vị A la hán, nhân đó mới đủ túc số năm trăm vị(14).

Nhờ thẩm tra nhiều nguồn tư liệu cho thấy Đại hội kết tập tại thành Vương Xá chỉ gồm những vị cùng một phái với ngài Ca Diếp, và đó là cuộc kết tập của một thiểu số người, của những vị Thượng tọa Tỳ kheo đại biểu cho phái khổ hạnh. Duy có điều, thành quả của lần Đại hội này là rất to lớn. Nó đánh bại tất cả mọi dị nghị của số đông người, do đó cho nên vị trí của nó là cực kỳ quan trọng. Nói chính xác, thì đây là cuộc Đại hội được tổ chức vừa thuận lợi, vừa hoàn thành một cách chóng vách. Nếu không, có thể sẽ diễn ra một cuộc tranh luận không khoan nhượng giữa các đại gia; chừng đó vấn đề càng thêm phức tạp. Có điều, trong kỳ Đại hội này phái của Trưởng lão Phú Lâu Na không thấy tham dự, và đó cũng là vấn đề còn đọng lại của Phật Giáo.

- Trưởng lão Phú Lâu Na

Lúc Đại hội kết tập tại thành Vương Xá kết thúc, theo “Thiện Kiến Luật” của Nam truyền, và “Tứ Phần Luật” của Bắc truyền, tất cả các bộ luật này đều nói có một vị trưởng lão tên là Phú Lâu Na dẫn năm trăm Tỳ kheo từ phương nam đi đến thành Vương Xá, hay còn nói là từ Nam Sơn (Dakkhi Na Giri) đến để cùng ngài Ca Diếp luận đàm thêm về Pháp (kinh) và Luật (giới). Theo “Luật Tiểu Phẩm Ngũ Bách Kiền Độ Đệ Thập Nhất” của Nam truyền(15), thì nói là ngài Phú Lâu Na phiền trách mà rằng: “quí ngài kết tập pháp, luật, điều đó là cực quí. Nhưng tôi là người từng thân cận, và theo Phật nghe pháp; vậy, quí ngài cũng nên nghe tôi khẩu thuật”. Riêng “Ngũ Phần Luật” quyển 30(16) thuật rằng ngài Phú Lâu Na nói với ngài Đại Ca Diếp: “đích thân tôi theo Phật nghe pháp, nghe luật, những việc như “nội túc thực”(17), chính tự tôi dâng thức ăn lên Phật, tự tội nhận thu dọn sau khi Phật thọ thực xong, tôi dâng nước uống lên Phật, không người nào không sạch, không món nào không sạch, tôi mới dâng lên Phật”. Trên đây thuộc vấn đề ẩm thực được luật chế định. Ý tứ muốn nói với ngài Đại Ca Diếp là lúc Phật ở tại Tỳ Xá Ly, gặp phải năm thiếu đói, việc khất thực khó có ai cúng dường nhân đấy mới đưa ra điều cấm. Về sau lại đem vấn đề này ra chế định. Vì vậy bảy việc vừa kể được cọi là không hợp pháp. Nhưng ý nói theo luật văn do ngài Ưu Ba Li tụng xuất, thì phạm bảy việc trên là phạm tội Đột kiết la (ố tác). Bảy việc nêu trên tuy không quan trọng, nhưng cũng là vấn đề được đặt ra. Ngoài nội dung được kết tập tại thành Vương Xá, vẫn còn những hành vi, những kiến giải khác với nội dung kết tập bị bỏ sót. Chính đấy là nguyên nhân đưa đến việc phân chia Bộ phái.

Trưởng lão Phú Lâu Na nói trên, không phải là vị Tỳ kheo đứng hàng thứ bảy trong số thập đại đệ tử của đức Phật, không phải là Phú Lâu Na bạn của ngài Da Xá, cũng không phải là ngài Phú Lâu Na thuyết pháp đệ nhất(18).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/11/2014(Xem: 6097)
Roberto Baggio, 47 tuổi, gần đây đã mở một trung tâm Phật giáo ở ngoại ô thành phố Milan. Gần 1,000 người đã tập trung tại trung tâm Phật giáo lớn nhất châu Âu này. Baggio nói với các phóng viên, “ Điều quan trọng nhất của đời tôi là khi tôi tìm thấy Phật giáo. Ngày nay nhiều người đang cố gắng tìm hiểu triết lý này, vì vậy việc lập ra trung tâm này, trong một ý nghĩa nào đó, là khởi điểm của một dự án lớn.” Baggio được đám đông đón chào nồng nhiệt, và anh đã hướng dẫn một buổi thiền định tại đây. Thường được gọi với biệt danh (tóc) Đuôi ngựa Thần thánh, Baggio đã ghi bàn 27 lần trong 56 trận bóng đá cho đội tuyển Ý. Baggio cải đạo sang Phật giáo cách đây 27 năm và trở thành một trong những người Ý nổi tiếng nhất làm như vậy. Ghi bàn hơn 200 lần trong bóng đá Ý, Baggio được xem là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại ở đất nước này. (tipitaka.net – November 1, 2014)
07/11/2014(Xem: 27755)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
25/10/2014(Xem: 18046)
Trong bất cứ một cộng đồng nào đều có nhiều tầng lớp khác nhau, nhiều chủng loại con người khác nhau sống cùng trong đó, thì chắc chắn luôn có sự hiện diện của nhiều mặt tư tưởng khác nhau, phát sinh nhiều vấn đề liên quan. Vì vậy để gìn giữ một cuộc sống yên bình cho một cộng đồng, con người phải có nhiều phương pháp để hòa giải mọi sự khác biệt. Xuyên suốt trong lịch sử của loài người, đã có rất nhiều lời đề xuất để giải quyết, thậm chí phải sử dụng đến phương sách bạo động, chẳng hạn như chiến tranh, xung đôt nhằm giải quyết sự khác biệt.
21/10/2014(Xem: 9852)
Hans Küng, sinh năm 1928 tại Sursee, Thụy Sĩ, là Giáo sư Thần học hồi hưu thuộc Đại học Tübingen, Đức. Ông đã sáng lập Hiệp hội Đạo đức Thế giới (Stiftung Weltethos) mà hiện nay ông đang là Chủ tịch Danh dự. Với nhiều công trình nghiên cứu khoa học về các tôn giáo và các đóng góp to lớn về nỗ lực liên tôn cho hoà bình thế giới, ông được nhiều giải thưởng cao qúy và được vinh danh là một nhà tư tưởng quan trọng nhất đương đại. "Auf den Spuren des Buddha" là một trích đoạn từ trong tập hồi ký: “Erlebte Menschlichkeit, Erinnerungen“, Piper, München, Zürich, 2. Aufl. 2013, 377-403.
18/10/2014(Xem: 42122)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
16/10/2014(Xem: 9699)
Chaman Lan và một số học giả Hoa Kỳ cho rằng không phải ông Columbus đầu tiên tìm ra Châu Mỹ mà chính những người di dân Hindu từ Ấn Độ. Lý luận mới lạ này được dựa vào một số truyền thống thịnh hành ở Trung Mỹ và Mexico. Nhưng giả thiết này thiếu sự ủng hộ của bằng chứng văn học. Tuy nhiên chúng ta cũng có ít nhất là một điểm được ghi lại trong lịch sử Trung Hoa nói đến một đoàn tu sĩ Phật Giáo đến Châu Mỹ vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch và đã đưa Phật Giáo vào dạy cho những người dân ở đó.
17/08/2014(Xem: 18386)
Tín đồ Phật giáo tin rằng có một con người thật được tôn xưng là đức Phật, hay Đấng Giác Ngộ, đã nhận ra được trí huệ sáng suốt xa xưa, hay nói đúng hơn là từ vô thủy, của con người. Và ngài đã làm được điều này ở Bihar, Ấn Độ, vào khoảng từ năm 600 cho đến 400 trước Công nguyên – thời gian chính xác không được biết.
17/08/2014(Xem: 7680)
Vào thời đại Silla (Tân La) ở Hàn Quốc, khoảng hơn Nghìn năm trước, có một cậu bé tên là Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) sống ở làng Moryang. Vì hoàn cảnh gia đình gặp phải khó khăn về kinh tế, cho nên cậu phải rày đây mai đó làm thuê mướn để đổi lấy bát cơm manh áo và phụ giúp gia đình. Một hôm, sau khi dự buổi thính pháp đàm của một vị Pháp sư giảng giáo lý Phật đà, cậu liền về nhà thuyết phục mẹ mình cúng dường mảnh ruộng vườn, tài sản duy nhất của gia đình để tích phúc đức.
26/05/2014(Xem: 9973)
New Delhi, India – Nhà truyền bá Phật giáo Toàn cầu đầu tiên của thế giới Anagarika Dharmapala và người đàn ông được nói đều nhiều nhất ở Ấn độ ngày nay, và có lẽ những người có quyền thành lập chính sách và đưa ra quyết định, Thủ tướng Ấn độ, ông Narendra Modi, đều có một số điểm chung. Cả hai đều sinh ngày 17 tháng 09 mặc dầu cách nhau 86 năm. Anagarika Dharmapala sinh ngày 17 tháng 09 năm 1864 và Narendra Modi chào đời ngày 17 tháng 09 năm 1950.
28/04/2014(Xem: 10608)
Chào mừng Đại lễ Phật Đản Vesak LHQ 2014 tổ chức tại Việt Nam, được sự hỗ trợ của Ban thư ký Đại lễ Vesak, một ê kíp gồm nhiều đạo diễn, quay phim kỳ cựu của Truyền hình An Viên (AVG) đã thực hiện bộ phim tài liệu 10 tập có nhan đề "Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567