Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết 2: Phật giáo với vương triều Phạt Đàn Na

05/01/201202:25(Xem: 4918)
Tiết 2: Phật giáo với vương triều Phạt Đàn Na

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm- Thích Tâm Trídịch

---o0o---

CHƯƠNG XI
VƯƠNG TRIỀU CẤP ĐA
VÀ PHẬT GIÁO SAU VƯƠNG TRIỀU NÀY

TIẾT II. PHẬT GIÁO VỚI VƯƠNG TRIỀU PHẠT ĐÀN
NA

Vương thống Giới Mật được thành lập từ một tiểu bang với nhiều cây rừng vào thời hậu kỳ vương triều Cấp Đa thuộc trung Ấn Độ; tuy là một bá chủ nhưng tự xưng là quân vương, và cũng từng cử hành lễ Mã tự, lãnh thổ quốc gia thì nhỏ hẹp, chỉ thống lĩnh có hai địa khu là Ma Kiệt Đà và Mãnh Gia Lạp. Vào thời ấy trong nhiều tiểu bang cùng suy cử Tháp Ni Tư Hoa Nhĩ (Thaneshvara) thuộc địa khu đông bộ Bàng Giá Phổ, vì khu này cường thịnh hơn. Người khai sáng bang Tháp Ni Tư Hoa Nhĩ là Phất Sa Phật Đàn Na (Pashyavardhana) qua bốn lần truyền đến vị tù trưởng thứ năm là Ba La Yết La Phạt Đàn Na (Prabhakaiavardhana) mới kiến lập nên vương triều Phạt Đàn Na - tức vương triều Giới Nhật. Ba La Yết La Phạt Đàn Na có hai người con trai, một có tên là La Xà PHạt Đàn Na (Rajyavardhana), một có tên là Hạt Lợi Sa Phạt Đàn na (Harshavardhana). Năm 604 Tây lịch, Ba La Yết Phạt Đàn Na sai hai người con đem quân chinh phạt Bạch Hung Nô ở vùng đông Ấn, chẳng may người con thứ bị chết trong quân trận. Người con trưởng lên kế vị cha, lại thống suất đại quân đông chinh lần nữa để đánh đuổi Mã Nhĩ Hoa, lại chẳng may bị thổ vương bày ngụy kế vây hãm và giết chết; bèn đưa người con trai của vị vương tử thứ nhất lên tức vị, tuy mới mười sáu tuổi và lấy Khúc Nữ Thành (Kamyakubja - nay là Janauj) làm thủ đô. Vị vua này trong “Đường Thư” của Trung Quốc gọi là vua Giới Nhật (năm 606-647 tây lịch). Vua Giới Nhật là người mà Huyền Trang gặp được lúc ông lưu học tại Ấn Độ.

Vua Giới Nhật là vị quốc vương vĩ đại cuối cùng của lịch sử cổ đại Ấn Độ, ông mở rộng bản đồ của Ấn Độ đến tận Hà Khẩu thuộc Nhã Lỗ Tạng Bố Giang,chạy thẳng đến Già Đệ Ngõa Nhĩ, bao quát luân Bàng Giá Phổ, Mã Nhĩ Hoa, Khúc Nữ Thành, Tỷ Hiệp, Mãnh Gia Lạp, A Lý Sa, A Tát Mật v.v... biên cương bên ngoài vùng tây bắc; có thể nói ông là người chỉnh đốn, củng cố khắp khu vực tây bắc Ấn Độ tức khu vực nằm dưới sự thống trị của ông. Ông không những khuếch trương lãnh thổ Ấn Độ bằng võ công, mà ông còn vận dụng đạo đức và học vấn để chiêu cảm các thổ bang tự trị như Cưu Ma La, Ma Kiệt Đà, Ni Bạc Nhĩ, Khách Thập Mễ Nhĩ, Ba La Tỳ (nay là Cổ Ca Lạp Đê) v.v... qui thuận về vương triều Giới Nhật.

- Phật giáo với vua Giới Nhật.

Vua Giới Nhật là vị quốc vương có nhiều tài nghệ. Ông ở ngôi được bốn mươi mốt năm, ông dụng binh trong sáu năm, thời gian còn lại ông tập trung vào chính trị, văn hóa và tôn giáo. Năm Trinh Quán thứ mười lăm (641) đời vua Đường Thái Tông, ông giao hảo với vua nhà Đường của Trung Hoa, năm Trinh Quán thứ mười bảy (643) vua Đường Thái Tông phái Vương Huyền Sách đi Ấn Độ. Chuyến đi này có lập bia ký lưu niệm tại Ma Kiệt Đà. Những tạo tác về văn nghệ của vua Giới Nhật, như đã giới thiệu sơ lược ở chương bảy của sách này.

Về mặt tôn giáo, vua Giới Nhật vốn là tín đồ Ấn Độ. Nhưng về sau ông được Huyền Trang và đại đức Điệt Bà Ca Mạt Đa La (Divakarmitra) thuộc Tiểu thừa giáo cảm hóa, nhân đấy, ông quy tín Phật giáo. Nhờ vậy nên việc Phật giáo thường gặp pháp nạn trước đó, và nay dưới thời ông lại có cơ hội chấn chỉnh và phục hưng. Đối với Phật giáo, công đức và thành tích nổi tiếng của ông có bốn việc sau:

1. Cấm chỉ sát sinh, khen thưởng người ăn chay.

2. Chiếu theo tiền lệ của vua A Dục để hoằng dương chánh pháp, như: kiến tạo tự viện, tạo thạch tháp, xây dựng phòng xá để cúng dường Sa môn, và những nơi dùng vào việc triều lễ thánh tích.

3. Mỗi năm một lần, triệu tập các vị Sa môn từ nhiều nơi vân tập về một trú xứ để cử hành đại hội, mục đích là thảo luận về Phật học, tán dương khen thưởng các bậc hiền giả, răn đe các vị ương ngạnh.

4. Năm năm một lần, cử hành đại hội Vô Giá, đồng thời đem tài vật ra bố thí cho dân chúng.

Tuy là thế, nhưng vua Giới Nhật vẫn giữ thái độ sùng kính đối với Ấn Độ giáo. Đại đường Tây Vực ký của Huyền Trang có đoạn chép: “Tại đại hội Bát La Da Ca (Prayàga), ngày thứ hai vua lễ tượng thần Thái Dương, ngày thứ ba vua lễ tượng thần “Thấp Bà”. Thể đủ thấy tinh thần khoan hòa của vua Giới Nhật.

- Sự vinh quang của Tam tạng Huyền Trang trên đất Ấn.

Năm Trinh Quán thứ ba (629), đời vua Đường Thái Tông, sư Huyền Trang lên đường tây du sang Ấn Độ. Lưu học Phật pháp tại Ấn Độ mười bảy năm, sau đó mới về nước. Trong thời gian lưu học tại Ấn Độ, Huyền Trang thọ học Du Già Duy Thức, với sư Giới Hiền, theo ngài Như Lai Mạt, ngài Sư Tử Nhẫn v.v... để tập học Nhân Minh, Thanh Minh; và hướng về ngài Thắng quân để cho Duy Thức Quyết Trạch luận. Ông trở lại chùa Na Lan Đà và phụng mệnh ngài Giới Hiền giảng bộ Nhiếp Đại Thừa Luận và bộ Duy Thức Quyết Trạch Luận. Ông lĩnh hội và quán thông tông nghĩa của cả Trung Quán và Du Già. Ông trước tác bộ Hội Tông Luận với ba nghìn bài tụng, bấy giờ ông dùng luận này để giải đáp những gì ông giảng về Trung Quán luận và Bách Pháp Luận tại chùa Na Lan Đà; đồng thời ông cũng dùng Hội Tông Luận để bác bỏ giáo nghĩa Du Già của Sư Tử Quang. Nhân đấy, danh tiếng của ông được đại chấn (vang dội).

Sau ông cùng với Hải Huệ, Trí Quang, Sư Tử Quang v.v... bốn vị Đại đức đến yết kiến vua Giới Nhật theo lời thỉnh mời của quốc vương. Tại Cung vua, Huyền Trang bị luận sư Tiểu thừa chế tác bảy trăm bài tụng để phá giáo nghĩa Đại thừa, Huyền Trang đích thân chế tác một nghìn sáu trăm bài tụng với tựa đề là “Chế Ác Kiến Luận” để phá đổ giáo nghĩa của sư Tiểu thừa. Nhờ đó, danh tiếng của Huyền Trang càng lừng lẫy thêm.

Mùa đông, năm Trính Quán mười sáu (642), vua Giới Nhật mở đại hội tại Khúc Nữ Thành, tại đại hộinày có mowif tám vị quốc vương cùng phó hội, với hơn ba nghìn tăng nhân cả Đại và Tiểu thừa tham dự, chùa Na Lan Đà cử hơn một nghìn tăng nhân đến dự, và có hơn hai nghìn tín đồ Kỳ Na Giáo cũng đến dự. Sư Huyền Trang được mời làm Luận Chủ của đại hội. Tại đại hội, Huyền Trang dùng bộ “Chân Duy Thức Lượng Tụng” do ông sáng tác để xưng dương Đại thừa, và tuyên thị giữa đại chúng phó hội rằng: Nếu ai tìm thấy một chữ nào vô nghĩa lý trong bộ “Chân Duy Thức Lượng Tụng” nhân đó có thể phá được luận chủ, thì ông xin lấy đầu mình để tạ tội. Qua mười tám ngày đại hội, không thấy ai đưa ra luận nghĩa nào để kích phá lại Huyền Trang. Do đó, không có gì lạ, thịnh danh của Huyền Trang mãi đến ngày nay các học giả Phật giáo Ấn Độ vẫn còn sùng kính.

- Pháp nạn tại Ấn Độ.

Khi phụ vương của vua Giới Nhật là Ba La Yết La Phạt Đàn Na còn trị vì, thì tại đông Ấn Độ có vị Thổ bang của nước Kim - Nhĩ ngày thêm cường thịnh, đó là quốc vương Thiết Thưởng Ca (Nguyệt), và ông dùng vũ lực để lấn chiếm phía tây Ấn Độ. Nơi nào ông đến, ông cũng hủy diệt Phật giáo. Như phá chùa, chôn sống tăng nhân, triệt phá cây Bồ Đề nơi đức Phật thành đạo (Phật Đà Ca Da). Chùa chiền và tăng chúng tại nơi đức Phật nhập Niết bàn. Câu thi Na La cũng đều bị thiêu hủy và tàn diệt. Có thuyết nói, thầy của Huyền Trang là đại luận sư Giới Hiền cũng bị ông vua này bắt và dọa chôn sống, nhưng sư Giới Hiền là một trong những người đào thoát được pháp nạn này.

Giáo nạn xảy ra khắp nơi tận hai bên bờ sông Hằng. Khiến Phật pháp một thời bị suy đốn. Nếu không có việc vua Giới Nhật qui y Phật giáo, có khả năng huệ mạng Phật pháp nhân pháp nạn này mà tuyệt chủng chăng!

Vua Giới Nhật hướng về Bồ tát Quán Tự Tại mà cầu nguyện, và chỉ một lần xuất quân ông đánh thắng vua Thiết Thường Ca. Tiếc là vua Giới Nhật không có con nối nghiệp nên sau khi vua băng hà, vương triều Giới Nhật cũng theo đó mà lâm vào thời kỳ suy vong. Vua Giới Nhật duy nhất chỉ có một người con gái, và gả về cho vua Ấn Nhật của Bang Ba La Tỳ ở phương nam.

Sau khi vua Giới Nhật băng hà, các tiểu bang nổi lên tự tuyên bố độc lập, có nhiều tiểu bang không thừa nhận người kế vị do vua Giới Nhật tuyển chọn. Bấy giờ có vị đại thần của vua Giới Nhật tên là Khiếu Hữu Tu nghĩ rằng, ông là người kế vị vua Giới Nhật, nhưng ông kháng cự không tiếp sứ thần nhà Đường là Vương Huyền Sách. Do đó, ông bị Vương Huyền Sách mượn vũ lực của Tây Tạng vây bắt, và tống ông và tù ở tận Trung Hoa.

Sau thời vua Giới Nhật, Bà La Môn giáo xuất hiện hai vị học giả kiệt xuất, một vị tên là Cưu Ma Lợi Bà Đa (Kumari Bhatta), vị kia tên là Thương Yết La A Xà Lê (Shankaracharya), ông này thuộc phái Phệ Đàn Đa, cả hai đều ra đời trong cùng một thế kỷ 650-750 tây lịch. Cả hai ra sức khôi phục lại địa vị được tôn sùng cao nhất của kinh Vệ Đà như buổi ban đầu của nó đã có, việc làm của họ vô tình công kích lại Phật giáo.

Tác phẩm vĩ đại của Cưu Ma Lợi Bà Đa là bộ “Vệ Đà Chân Nghĩa Bình Luận”. Nhờ bộ luận thư này mà triết học Bà La Môn giáo được đại thành, nét đặc sắc của Phật giáo cũng nhân đấy mà bị tiêu tiêu thất; Kumaril Bhatta vân du trên toàn cõi Ấn Độ, ông là người biện tài vô ngại, rộng truyền học thuyết của mình và công kích Phật giáo. Ông là người bắc Ấn Độ, có thuyết nói ông thuộc phái nam Ấn khi phái này thịnh hành. Bấy giờ trong hàng đệ tử Phật không ai có thể nghị luận thắng được ông; trong khi đó phương thức giảng học của chùa Na Lan Đà cứ một mực công khai, nhưng đến thời này không còn đủ sức để hàng phục ngoại đạo, mà chỉ cải đổi việc giảng học trong nội tự mà thôi.

Riêng về học giả Thương Yết La A Xà Lê, ông tuy là người nam Ấn Độ, nhưng trên lĩnh vực tôn giáo và triết học ông được giới sử học Ấn Độ coi ông như là kết tinh của tư tưởng nhân loại; ông rộng truyền giáo nghĩa Vệ Đà khắp các vùng đông, tây, nam và bắc Ấn Độ. Ông kiến lập năm trung tâm truyền đạo. Về phương diện tinh thần, ông được coi như là người thống trị toàn Ấn.

Truyền thuyết kể là bấy giờ ông đến địa phương Phiên Ca La, thách thức mở cuộc luận biện với tăng nhân Phật giáo,và trong số những vị luận sư dùng giáo lý Phật giáo để luận tranh với ông không ai có thể thủ thắng, vì thế nên có đến hai mươi lăm đạo tràng bị hủy bỏ, và hơn năm trăm vị Tỳ kheo bị bức hại phải cải đạo; tại địa phương ông Âu Đề Tỳ Xá ở đông Ấn Độ tình hình Phật giáo tại đây cũng chẳng có gì khá hơn.

Người có năng lực hoằng đạo, chẳng phải đạo hoằng nhân. Người có người ưu người liệt, pháp vận có lúc thịnh lúc suy, tất cả đều có quan hệ cực lớn đến thực tại.

 

TIẾT III. LƯỢC KHÁI QUÁT LUẬN CU XÁ.

Phẩm Mục của Cu Xá.

Đại luận sư Thế Thân, người nước Kiền Đà La sau đến nước Ca Thấp Di La học luận Đại Tỳ Bà Sa, lúc hồi hương ông viết ra yếu nghĩa với sáu trăm bài tụng, và gởi sáu trăm bài tụng này trở lại nước Ca Thấp Di La. Bấy giờ có luận sư Ngộ Nhập của Hữu Bộ cho rằng sáu trăm bài tụng của Thế Thân trái nghịch với giáo nghĩa chính thống nên yêu cầu Thế Thân viết thích nghĩa cho sáu trăm bài tụng do ông viết ra. Nhân đó, Thế Thân liền viết thích luận mà thành bộ A Tỳ Đạt Ma Cu Xá Luận (Abhidharmakosa Sàstra) đọc giản lược là Cu Xá Luận. Bộ luận này hiện vẫn còn bản luận sớ Phạn văn, và một số thứ loại chú sở của Ấn Độ được dịch ra Tạng văn. Gần đây tại Trung Quốc có pháp sư Diễn Bồi viết cuốn Cu Xá Luận Tụng Giảng Ký. Đây là tư liệu có thể tham khảo.

Luận Cu Xá là bộ luận chỉnh lý, thống nhất phê phán và tổ chức lại tư tưởng cực kỳ vụn vặt của Hữu Bộ để thành bộ luận vô cùng xảo diệu. Xin liệt kê những phẩm mục của Luận Cu Xá như sau:

lichsuphatgiaoando-06-04

Phương pháp để dễ ghi nhớ cá phẩm mục trong Luận Cu Xá, xưa nay người ta có một bài kệ tóm gọn như sau:

“Giới nhị căn ngũ thế gian ngũ.

Nghiệp lục tùy tam Hiền thánh tứ.

Trí nhị định nhị phá ngã nhất.

Thị danh (Cu Xá) tam thập quyển”.

- Cu Xá với Bảy Mươi Lăm Pháp.

Luận cu Xá đem tất cả các pháp chia thành pháp hữu vi và pháp vô vi. Phàm cái gì được tạo tác bởi nhân duyên, chịu sự dịch chuyển, sự tác động bởi thời gian, có sự sai biệt về nhiễm tịnh, tức tất cả mọi hiện tượng của thế gian đều thuộc pháp hữu vi. Thoát ly tính chất pháp hữu vi, xa lìa tất cả trạng thái của tác dung, bao hàm cả cái nghĩa ba khoa là”Khôi thân diệt trí” của Niết bàn, đều thuộc pháp vô vi. A Tỳ Đạt Ma phần nhiều lấy ba khoa làm ngũ uẩn, mười hai nhân duyên và mười tám giới làm chuẩn rồi theo đó phân loại pháp. Luận Cu Xá dựa vào cách phân loại này, nhưng có thêm sự nghiên cứu về sắc pháp, Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp từ bộ luận Phẩm Loại Túc. Tuy nhiên việc xác định bảy mươi lăm pháp là do sau này ngài Phổ Quang nêu ra trong bộ Cu Xá Luận Ký do ông trước tác. Nhân vì trong Luận Cu Xá vẫn chưa lấy các pháp bất định như ố tác, thùy miên, tầm, tư trong tâm sở hữu pháp làm số lượng. Còn nguồn bảy mươi lăm pháp xuất thân từ luận Cu Xá thì không phải nghi ngờ gì.

Xin liệt kê danh xưng bảy mươi lăm pháp như sau:

lichsuphatgiaoando-06-05

- Quả nhân duyên.

Luận Cu Xá tóm thu tất cả các pháp qui thành bảy mươi lăm pháp. Nhưng bảy mươi lăm pháp này không tồn tại một cách cá biệt và độc lập, mà tồn tại trong mối quan hệ hỗ tương và liên quan với nhau một cách mật thiết, đấy là Nhân duyên luận (xin đọc Tiểu thừa Phật Giáo tư tưởng luận - của Mộc Thôn Thái Hiền, thiên II, chương sáu). Nhân và duyên ràng buộc với nhau thành ra quả. Thông xưng gồm có: sáu nhân, bốn duyên và năm quả, như biểu đồ sau:

lichsuphatgiaoando-06-06

- Pháp Thế Gian.

Pháp nhân quả, gom cả thế gian pháp và xuất thế gian pháp. Nhưng các pháp thế gian và xuất thế gian cũng cần có thêm sự phân loại. Phẩm Thế Gian, Phẩm Nghiệp và Phẩm Tùy Miên của Luận Cu Xá là dùng để phân tích Quả, Nhân, Duyên thuộc mê giới. Mê giới lại được chia thành hữu tình thế gian và khí thế gian. Địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân, thiên thuộc hữu tình thế gian, đứng về mặt không gian mà an lập tầng thứ thì sự lưu chuyển sinh tử của hữu tình được chia làm bốn trạng thái là; sinh hữu, bản hữu, tử hữu và trung hữu. Còn y vào mười hai duyên khởi thì có ba đời với lưỡng trùng nhân quả, đấy là nói về mặt thời gian mà an lập thứ tự. Dục giới, sắc giới và vô sắc giới, ba giới này làm khí thế gian. Lại lấy bốn kiếp là: thành, trụ, hoại, không, chi phối sự tuần hoàn sinh diệt của khí thế gian (đồ chứa đựng gọi là khí), đây là nói thứ tự khí thế gian được an lập về mặt thời gian.

Song nếu không có pháp xuất thế gian thì sự an lập pháp thế gian bất luận đó là hữu tình thế gian, hay khí thế gian, kết cục vẫn cứ mãi quay vòng mà không có điểm dừng lại, thành ra vô thỉ vô chung, vì cứ nối tiếp nhau làm nhân rồi lại làm duyên tương tục không dứt.

Sở dĩ chúng sinh không thoát khỏi được sinh tử, đó là do tạo nghiệp, tạo nghiệp thị thọ quả báo. Do đó, Phẩm Nghiệp của luận này đặc biệt dành để phân tích thuyết nói về Nghiệp. Nghiệp được chia thành “tư nghiệp” và “tư dĩ nghiệp”. Nghiệp thuộc về ý gọi là tư nghiệp, nghiệp thuộc về thân và ngữ gọi là tư dĩ nghiệp. Lại lấy hai nghiệp thân và ngữ, mỗi nghiệp như thế lại chia thành “biểu nghiệp” và “vô lậu nghiệp”. Chúng sinh tạo nghiệp là do “hoặc” (mê mờ) sai sử, do đó Phẩm Tùy Miên của luận này là nhằm khai thông vấn đề “hoặc”. Tùy miên là do hoạt động của nghiệp mà dẫn dến khổ quả, ý vị của tùy miên trong đó có phiền não. Phiền não được phân ra thành căn bản (sáu thứ hoặc mười thứ) và chi mạt (có mười chín thứ). “Hoặc” có “kiến hoặc” - mê về lý, và “tư hoặc” - mê về sự; kiến hoặc là do mê muội không thấu rõ lý Tứ đế, kiến hoặc phối hợp cả trong tam giới mà thành tám mươi sử. “Tư hoặc” là bốn thứ: tham, sân, si, mạn trong căn bản phiền não, cọng cả thảy trong tam giới có mười thứ; trong đó dục giới có bốn, còn sắc giới và vô sắc giới ngoại trừ không có tham, còn thì mỗi giới đều có ba thứ, lại còn có một trăm lẻ tám phiền não, tức tám mươi tám sử thuộc kiến hoặc, mười thứ thuộc “tư hoặc” cộng với mười trên mà thành (108). (Các danh tướng vừa nêu xin đọc thêm Pháp số).

- Xuất thế gian.

Mục đích của việc phân chia pháp thế gian là nhằm tiến đến con đường xuất thế gian của thánh đạo. Phẩm Hiền Thánh, Phẩm Trí, Phẩm Định của Luận Cu Xá là để thuyết minh: quả, nhân, duyên thuộc thế giới chứng ngộ. Trí ở đây chỉ cho nghĩa quyết đoán, và được chia thành hữu lậu trí và vô lậu trí. Bốn thứ huệ là: sinh đắc huệ, văn huệ, tư huệ và tu hệ thì gọi là hữu lậu trí; hai thứ là pháp trí và loại trí, thì gọi là vô lậu trí. Công năng của trí là đoạn trừ kiến hoặc. Nói về định, cũng chia thành sinh đắc định và tu đắc định, hai định này mỗi định có bốn sắc giới định (tứ thiền) và bốn vô sắc giới định, mỗi định lại phân ra cận phần định và căn bản định. Do công năng của trí và định mà có thể thứ lớp chứng nhập quả vị hiền thánh. Quá trình đoạn hoặc chứng chơn là trải qua nhiều giai đoạn và quả vị vô cùng phồn phức. Xin lược qua như sau:

1. Hiền Vị thất gia (bảy bậc) và chia ra hai loại:

a) Tam hiền - Ngũ đình tâm, biệt tướng niệm trụ, tổng tướng biệt trụ.

b) Bốn thiện căn - Noãn thiện căn, đảnh thiện căn, nhẫn thiện căn (nhẫn thiện căn lại có thể tế phân ra làm: hạ, trung thượng ba phẩm), thế đệ nhất pháp.

2. Hai loại thánh vị, chia thành “tam đạo bát bối” (ba đường tám nhóm):

a) Hữu học vị chia làm Dự Lưu - hướng thuộc kiến đạo, Dự Lưu quả thuộc kiến đạo, Nhất Lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng.

b) Vô học vị thuộc vô học đạo, tức là quả A la hán. Những quả vị thanh văn này chỉ có khi thế gian có Phật. Khi đời không có Phật xuất hiện, tự mình có thể quán mười hai nhân duyên mà ngộ nhập Thánh quả, thì gọi là Độc giác, và tiếng Phạn là Bích Chi Ca Phật (Pratyekabuadha). Kiếp trước và hiện kiếp khi đức Thích Tôn chưa chứng đắc Phật quả, Ngài được xưng là Bồ tát. Trước tiên Bồ tát phải nỗ lực tu lục độ vạn hạnh, trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, lại còn phải trải qua trăm kiếp để gieo trồng “tướng hảo chi nghiệp” (nghiệp thiện để thành tướng hảo), sau rốt mới chứng Đẳng Chánh Giác (thành Phật). Sau cùng là Phẩm Phá Ngã. Đây là phẩm xiển minh lý vô ngã của Phật giáo, đồng thời dùng lý nghĩa này để phá bỏ ngoại giáo, và thuyết hữu ngã dị chấp.

(1) Đại Chánh tạng-49, cuối trang 15.

(2) Một tên gọi khác để chỉ chúng sinh.

(3) Một tên gọi khác để gọi chúng sinh.

(4) Vô học: Đạo học viên mãn, không phải tu học nữa thì gọi là vô học.

(5) Yết Lạt Lam Ka Lai,còn gọi là Ca La La v.v... dịch là ngưng hoạt, tạp uế v.v... tinh khí của cha mẹ khi mới hòa hợp ngưng kết, là thời kỳ thai nhi từ lúc thọ sinh cho đến 7 ngày sau. Từ Điển Phật Học - Hà Nội xuất bản 1994.

(6) Quyển 14 Đại Chánh tạng-22, cuối trang 340.

(7) Quyển 32 Đại Chánh tạng-22 cuối trang 501.

(8) Quyển 39, Đại Chánh tạng-22, trang 536.

(9) Đại Chánh tạng-24, giữa trang 676.

(10) Xin tham khảo luận thư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và sự nghiên cứu của các Luận sư của Bộ này - Pháp sư Ấn Thuận - trang 37.

(11) Đại Chánh tạng-25, trang 192.

(12) Đại Chánh tạng-25, giữa trang 192.

(13) Đại Chánh tạng-25, đầu trang 70.

(14) Vọng Nguyệt Phật Giáo Từ Điển - cuối trang 903.

(15) Nước Ca Thấp Di La naylà bang Kamira của Ấn Độ, thuộc vùng tây bắc - chú của người dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/11/2014(Xem: 6084)
Roberto Baggio, 47 tuổi, gần đây đã mở một trung tâm Phật giáo ở ngoại ô thành phố Milan. Gần 1,000 người đã tập trung tại trung tâm Phật giáo lớn nhất châu Âu này. Baggio nói với các phóng viên, “ Điều quan trọng nhất của đời tôi là khi tôi tìm thấy Phật giáo. Ngày nay nhiều người đang cố gắng tìm hiểu triết lý này, vì vậy việc lập ra trung tâm này, trong một ý nghĩa nào đó, là khởi điểm của một dự án lớn.” Baggio được đám đông đón chào nồng nhiệt, và anh đã hướng dẫn một buổi thiền định tại đây. Thường được gọi với biệt danh (tóc) Đuôi ngựa Thần thánh, Baggio đã ghi bàn 27 lần trong 56 trận bóng đá cho đội tuyển Ý. Baggio cải đạo sang Phật giáo cách đây 27 năm và trở thành một trong những người Ý nổi tiếng nhất làm như vậy. Ghi bàn hơn 200 lần trong bóng đá Ý, Baggio được xem là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại ở đất nước này. (tipitaka.net – November 1, 2014)
07/11/2014(Xem: 27640)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
25/10/2014(Xem: 17921)
Trong bất cứ một cộng đồng nào đều có nhiều tầng lớp khác nhau, nhiều chủng loại con người khác nhau sống cùng trong đó, thì chắc chắn luôn có sự hiện diện của nhiều mặt tư tưởng khác nhau, phát sinh nhiều vấn đề liên quan. Vì vậy để gìn giữ một cuộc sống yên bình cho một cộng đồng, con người phải có nhiều phương pháp để hòa giải mọi sự khác biệt. Xuyên suốt trong lịch sử của loài người, đã có rất nhiều lời đề xuất để giải quyết, thậm chí phải sử dụng đến phương sách bạo động, chẳng hạn như chiến tranh, xung đôt nhằm giải quyết sự khác biệt.
21/10/2014(Xem: 9837)
Hans Küng, sinh năm 1928 tại Sursee, Thụy Sĩ, là Giáo sư Thần học hồi hưu thuộc Đại học Tübingen, Đức. Ông đã sáng lập Hiệp hội Đạo đức Thế giới (Stiftung Weltethos) mà hiện nay ông đang là Chủ tịch Danh dự. Với nhiều công trình nghiên cứu khoa học về các tôn giáo và các đóng góp to lớn về nỗ lực liên tôn cho hoà bình thế giới, ông được nhiều giải thưởng cao qúy và được vinh danh là một nhà tư tưởng quan trọng nhất đương đại. "Auf den Spuren des Buddha" là một trích đoạn từ trong tập hồi ký: “Erlebte Menschlichkeit, Erinnerungen“, Piper, München, Zürich, 2. Aufl. 2013, 377-403.
18/10/2014(Xem: 42081)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
16/10/2014(Xem: 9664)
Chaman Lan và một số học giả Hoa Kỳ cho rằng không phải ông Columbus đầu tiên tìm ra Châu Mỹ mà chính những người di dân Hindu từ Ấn Độ. Lý luận mới lạ này được dựa vào một số truyền thống thịnh hành ở Trung Mỹ và Mexico. Nhưng giả thiết này thiếu sự ủng hộ của bằng chứng văn học. Tuy nhiên chúng ta cũng có ít nhất là một điểm được ghi lại trong lịch sử Trung Hoa nói đến một đoàn tu sĩ Phật Giáo đến Châu Mỹ vào thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch và đã đưa Phật Giáo vào dạy cho những người dân ở đó.
17/08/2014(Xem: 18323)
Tín đồ Phật giáo tin rằng có một con người thật được tôn xưng là đức Phật, hay Đấng Giác Ngộ, đã nhận ra được trí huệ sáng suốt xa xưa, hay nói đúng hơn là từ vô thủy, của con người. Và ngài đã làm được điều này ở Bihar, Ấn Độ, vào khoảng từ năm 600 cho đến 400 trước Công nguyên – thời gian chính xác không được biết.
17/08/2014(Xem: 7643)
Vào thời đại Silla (Tân La) ở Hàn Quốc, khoảng hơn Nghìn năm trước, có một cậu bé tên là Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) sống ở làng Moryang. Vì hoàn cảnh gia đình gặp phải khó khăn về kinh tế, cho nên cậu phải rày đây mai đó làm thuê mướn để đổi lấy bát cơm manh áo và phụ giúp gia đình. Một hôm, sau khi dự buổi thính pháp đàm của một vị Pháp sư giảng giáo lý Phật đà, cậu liền về nhà thuyết phục mẹ mình cúng dường mảnh ruộng vườn, tài sản duy nhất của gia đình để tích phúc đức.
26/05/2014(Xem: 9944)
New Delhi, India – Nhà truyền bá Phật giáo Toàn cầu đầu tiên của thế giới Anagarika Dharmapala và người đàn ông được nói đều nhiều nhất ở Ấn độ ngày nay, và có lẽ những người có quyền thành lập chính sách và đưa ra quyết định, Thủ tướng Ấn độ, ông Narendra Modi, đều có một số điểm chung. Cả hai đều sinh ngày 17 tháng 09 mặc dầu cách nhau 86 năm. Anagarika Dharmapala sinh ngày 17 tháng 09 năm 1864 và Narendra Modi chào đời ngày 17 tháng 09 năm 1950.
28/04/2014(Xem: 10551)
Chào mừng Đại lễ Phật Đản Vesak LHQ 2014 tổ chức tại Việt Nam, được sự hỗ trợ của Ban thư ký Đại lễ Vesak, một ê kíp gồm nhiều đạo diễn, quay phim kỳ cựu của Truyền hình An Viên (AVG) đã thực hiện bộ phim tài liệu 10 tập có nhan đề "Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567