Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương Biện Âm

02/05/201314:03(Xem: 19646)
Chương Biện Âm

Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa

--- o0o ---

BÀI THỨ TÁM

VIII. CHƯƠNG BIỆN ÂM

1.Ngài Biện Âm bồ tát hỏi Phật

Khi đó NGài Biện Âm bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi lạy Phật và quỳ thẳng bạch rằng:

-Bạch đức Ðại bi Thế Tôn, vừa rồi Ngài dạy ba pháp môn tu hành như thế, rất là hy hữu.

Nhưng các vị Bồ tát, khi muốn nhập Viên giác, đối với ba pháp môn phương tiện này, có mấy cách tu tập?

Cúi xin đức Thế Tôn, vì cả đại chúng hiện tại và chúng sanh đời sau, phương tiện mở bày, khiến cho chúng con đều ngộ được tướng chơn thật (viên giác).

Thư thỉnh như vậy 3 lần, rồi Ngài Biện Âm kính cẩn lạy Phật và trở lui.

LƯỢC GIẢI

Vừa rồi ở chương Oai Ðức Tự tại, Phật dạy có 3 pháp môn tu là “Chỉ, quán và chỉ quán song tu”, rất rõ ràng.

Ðến chương này Ngài Biện Âm Bồ tát lại hỏi thêm ba pháp môn phương tiện tren, có mấy cách tu. Nghĩa là mỗi người chỉ tu một pháp hay cả ba pháp? Ba pháp này tu đồng thời hay có trước sau? Phải theo thứ lớp tu hay vượt qua thứ lớp?

2. Phật khen Ngài Biên Âm Bồ tát

Khi đó đức Thế Tôn khen ngài Biện Âm bồ tát và dạy rằng:

-Này Thiện nam, quý lắm! ông vì đại chúng hiện tại và chúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai có bao nhiêu cách tu tập. ông nên chăm chú nghe, Như Lai sẽ vì các ông mà chỉ giáo.

Khi đó NGài Biện Âm bồ tát, cùng với Ðại chúng dồng yên lặng và hoan hỷ nghe lời Phật dạy bảo.

3. Phật dạy 25 pháp tu

-Này Thiện nam! Tánh Viên giác thanh tịnh của tất cả Như Lai, vốn không có pháp bị tu và người tu tập. Song vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, chưa nhập được Viên giác, còn phải phương tiện dùng huyễn pháp để tu tập; vì thế nên chia ra có 25 cách tu như sau:

LƯỢC GIẢI

Ðại ý đoạn này nói: Xứng về tánh “Viên giác thanh tịnh” thì không có người tu và pháp để tu. Song vì chúng sanh chưa giác ngộ, còn phải dùng phương tiện tu tập, vì thế nên Phật chia ra có 25 pháp môn tu.

Tuy chia ra 25 pháp môn tu, nhưng vẫn y theo 3 pháp là “Chỉ quán và Chỉ quán đồng thời tu” mà Phật đã dạy ở chương trước. Có khi tu chung hai pháp, ba pháp, mà có lúc lại riêng từng pháp một, hoặc tu trước, hoặc tu sau, tùy theo trình độ của chúng sanh xây qua trở lại thành 25 pháp; song tu pháp nào cũng đều chứng nhập được viên giác. 

1. Riêng tu một pháp “xa ma tha” (tu định)

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát giữ tâm rất vắng lặng, nhờ sức vắng lặng này, mà đoạn các phiền não, dược vĩnh viễn thành tựu rốt ráo tánh Viên giác, thì vị Bồ tát ấy lúc bấy giờ chẳng rời chỗ ngồi mà vẫn nhập được Niết bàn, Bồ tát tu như thế, gọi là chỉ tu một pháp “Xa ma tha” (tu chỉ”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát riêng tu một pháp “Chỉ”. Bồ tát giữ gìn tâm trạng rất tinh tịch, nên phiền não không sanh, đó là tu pháp “Chỉ”. Nhờ thế mà Bồ tát được rốt ráo thành tựu tánh “Viên giác”, đặng quả Niết bàn của Chư Phật.

2.Riêng tu một pháp “Tam ma bát đề” (tu huệ)

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát chỉ tu pháp quán “như huyễn”, và nhờ sức Phật gia hộ, nên Bồ tát ấy biến hóa ra được thế giới, thì mặc dù Bồ tát làm các diệu dụng độ sanh (tu quán), đầy đủ công hạnh mầu nhiệm của Bồ tát; nhưng vẫn không mất niệm tịch tịnh (Ðịnh) và Huệ yên lặng (Huệ) của Ðà La Ni (Viên giác). Bồ tát tu như thế, gọi là riêng tu một pháp “Tam ma bát đề”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát riêng tu một pháp “Quán”. Bồ tát khi tu pháp quán như huyễn, và nhờ thần lực của Phật, nên biến hiện thế giới uế độ thành Tịnh độ, biến địa ngục trở thành Thiên cung, vì các pháp đều như huyễn như hóa. Tu như t hế là tu “Quán”. Bồ tát mặc dù làm đủ công hạnh lợi tha, mà không rời bản t hể thường tịch (Ðịnh) và thường chiếu (huệ) của tánh viên giác.

Chữ “Ðà la ni” ở chương này, đồng với chữ “đà la ni” trong chương Văn t hù, tức là biệt danh của tánh Viên giác, như trong chương VĂn thù chép: “Có pháp Ðại Ðà La Ni gọi là Viên giác”

3.Riêng tu pháp “Thiền na” (định, huệ đồng tu)

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát chỉ diệt các huyễn, không chấp thủ tác dụng, riêng đoạn các phiền não, khi phiền não đoạn hết rồi, thì chứng được thật tướng, Bồ tát tu như thế, gọi là riêng tu pháp “Thiền na” (chỉ, Quán song tu).

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát đồng thời tu các “chỉ” và “quán”. Bồ tát “chỉ diệc các huyễn”, tức là không dùng “Ta ma bát đề” như đã nói ở trước (không tu quán như huyễn); “không chấp thủ tác dụng” tức là không tu “xa ma tha” như dã nói ở trước (không tu chỉ); “riêng đoạn phiền não” tức là tu “Thiền na” (Chỉ, quán song tu). Hi đoạn hết phiền não thì Bồ tát chứng đặng thật tướng, tức là tu “thiền na” mà nhập viên giác tánh.

4.Trước tu “định” sau tu “huệ”

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát trước giữ gìn nơi rất tịnh (chỉ) sau dung tịnh huệ (huệ yên tịnh) chiếu soi các pháp như huyễn như hóa, lúc bấy giờ khởi ra hạnh Bồ tát. Bồ tát tu như htế, gọi là trước tu “Xa ma tha” (chỉ) sau tu “Tam ma bát đề” (Quán)

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Chỉ” sau tu “Quán” - Bồ tát trước giữ tâm rất tịnh là tu “chỉ”, rồi dùng trí huệ yên tịnh mà chiếu soi các pháp như huyễn là tu “Quán”. Lúc bấy giờ Bồ tát trên thì cầu đạo Phật, dưới hóa độ chúng sanh, đó là thực hành Bồ tát hạnh.

5.Trước tu “định” sau “định,huệ đồng thời tu”

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát, dùng, trí huệ yên tịnh, chứng đặng htể tánh rất tịnh, rôì đoạn các phiền não, vĩnh viễn ra khỏi sanh tử. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “xa ma tha” (chỉ) sau tu “thiền na” (chỉ, quán song tu)

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Chỉ sau “chỉ, Quán song tu” - Bồ tát dùng trí huệ yên tịnh, chứng được tánh rất tịnh là tu “chỉ”, đoạn hết các phiền não, vĩnh viễn ra khỏi sanh tử luân hồi là “chỉ, quán song tu”.

6.Trước tu “Ðịnh”, thứ tu “Huệ, sau “Ðịnh, Huệ song tu”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát, dùng trí huệ thanh tịnh, lấy sức huyễn hóa biến hiện ra các hình thức, để hóa độ chúng sanh; sau đoạn các phiền não, rồi nhập vào cảnh giới tịch diệt. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “xa ma tha” (chỉ) thứ tu “tam ma bát đề” (quán) sau tu “Thiền na” (Chỉ, quán song tu).

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trướ ctu “chỉ”, thứ tu (quán), sau “chỉ, quán song tu”. -Bồ tát dùng trí huệ thanh tịnh là tu “chỉ”, lấy sức như huyễn mà biến hiện ra nhiều hình thức để độ chúng sanh là tu “Quán”. Sau Bồ tát đoạn phiền não rồi vào tịch diệt là “chỉ, quán song tu”.

7.Trước tu “Ðịnh” thứ “Ðịnh, Huệ song tu”, sau tu “huệ”

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức rất tịnh, đoạn các phiền não rồi, sau khởi cái hạnh thanh tịnh mầu nhiệm của Bồ tát, để độ các chúng sanh. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Xa ma tha”, thứ tu “Thiền na”, sau tu “Tam ma bát đề”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Chỉ”, thứ “chỉ, quán song tu”, sau tu “Quán” - Bồ tát trước tu “chỉ” được rất tịnh, rồi tiến tu “Thiền na” (Chỉ, quán song tu) để đoạn phiền não. Khi phiền não hết rồi thì Bồ tát vào trần lao độ sanh, đặng diệu hạnh tự tại vô ngại, không còn lo sợ nhiễm trước.

8.Trước tu “Ðịnh”, sau đồng thời tu “Huệ” và “Ðịnh, Huệ song tu”

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức rất tịnh của tâm, đoạn trừ phiền não và dựng lập thế giới, hóa độ chúng sanh. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Xa ma tha” sau đồng thời tu “Tam ma bát đề” và “Thiền na”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát truớc tu “Chỉ”, sau đồng thời tu “Quán” và “Chỉ, Quán song tu” - Bồ tát dùng sức rất tịnh là tu “Chỉ”, đoạn trừ các phiền não là tu “Thiền Na”, dụng lập thế giới và hóa độ chúng sanh là tu “Quán”

9.TRước đồng thời tu “Ðịnh” và “Huệ” sau “Ðịnh, Huệ song tu”

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức rất tịnh, giúp cho việc biến hóa, sau đoạn các phiền não. Bồ tát tu như thế, gọi là trước đồng thời tu “Xa ma tha” và “Tam ma bát đề” sau tu “Thiền na”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước đồng thời tu “Chỉ” và “Quán” sau “Chỉ, Quán song tu”. Bồ tát dùng sức rất tịnh là tu “chỉ” giúp việc biến hóa là tu “Quán”, sau đoạn phiền não là “Chỉ, Quán song tu”.

10.Trước đồng thời tu “Ðịnh” và “Ðịnh, Huệ song tu” sau tu “huệ”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức rất tịnh, giúp cho tịch diệt; sau rồi khởi tác dụng, biến hóa thế giới. Bồ tát tu như thế, gọi là trước đồng thời tu “xa ma tha” và “Thiền na”, sau tu “Tam ma bát đề”

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước đồng thời tu “Chỉ” và “Chỉ, Quán song tu”, sau tu “Quán”. - Bồ tát dùng sức rất tịnh, để đoạn phiền não, mà vẫn giữ tịch diệt, tức là đồng thời tu “Chỉ” và tu “Thiền na”. Sau dùng diệu hạnh của bồ tát ra thế giới hóa độ chúng sanh, tức là tu “Quán”. Từ pháp tu thứ tư, đến pháp tu thứ mười này cộng 7 pháp đều là trước tu “Chỉ”.

11.Trước tu “huệ” sau tu “Ðịnh”

-Này Thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức biến hóa tùy thuận theo các chúng sanh để hóa độ, mà vẫn giữ tánh rất tịnh Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Tam ma bát đề”, sau tu “Xa ma tha”

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Quán”. Sau tu “Chỉ”. – Bồ tát dùng sức biến hóa, tùy thuận theo các chúng sanh để hóa độ là tu “Quán”, mà vẫn giữ tánh rất tịnh là tu “chỉ”.

12.Trước tu “huệ” sau “Ðịnh, Huệ song tu”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát, dùng sức biến hóa, hoá hiện ra các cảnh giới mà vẫn giữ tịch diệt (vắng lặng). Bồ tát tu như thế gọi là trước tu “Tam ma bát đề” sau tu “thiền na”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát tu trước “Quán” sau “Chỉ, quán song tu”. - Bồ tát dùng sức biến hóa là tu “Quán”, biến ra các cảnh giới, để hóa độ chúng sanh mà vẫn giữ tịch diệt, thế là “Chỉ, Quán song tu”.

13. Trước tu “Huệ” thứ tu “Ðịnh” sau “Ðịnh, Huệ song tu”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa, làm các Phật sự mà vẫn ở yên nơi tịch tịnh, đoạn các phiền não, Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Tam ma bát đề” thứ tu “Xa ma tha” sau tu “thiền na”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Quán” thứ tu “chỉ”, sau “chỉ, quán song tu”. - Bồ tát dùng sức biến hóa làm các Phật sự là tu “Quán”, yên ở chỗ vắng lặng là tu “chỉ”, đoạn phiền não là “Chỉ quán song tu”

14. Trước tu “huệ” thứ “Ðịnh, Huệ đồng thời tu” sau tu “Ðịnh”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa, làm các việc không ngại, đoạn các phiền não và an trụ nơi rất tịnh. Bồ tát tu như t hế gọi là trước tu “Tam ma bát đề” thứ tu “Thiền na”, sau tu “Xa ma tha “

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Quán”, thứ “chỉ, quán song tu”, sau tu “Chỉ”. - Bồ tát dùng sức biến hóa làm các việc vô ngại là tu “Quán”, đoạn các phiền não là “Chỉ, Quán song tu”, an trụ nơi rất tịnh là tu “Chỉ”.

15. Trước tu “Huệ” sau đồng thời tu “định” và “định, huệ song tu”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa làm các phương tiện và tùy thuận hai pháp: rất tịnh (chỉ) và tịch diệt (thiền na). Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Tam ma bát đề” sau đồng thời tu “Xa ma tha” và “Thiền na”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước tu “Quán”, sau đồng thời tu “chỉ” và “chỉ, quán song tu”. - Bồ tát dùng sức biến hóa làm các phương tiện là tu “Quán”, tùy thuận tánh rất tịnh là tu “chỉ”, và tùy thuận tịch diệt là “Chỉ, quán song tu”.

16.Trước đồng thời tu “huệ” và “Ðịnh” sau tu “Thiền na” (định, huệ song tu)

-Này thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa, khởi ra các công dụng, giúp cho tánh rất tịnh, sau đoạn các phiền não. Bồ tát tu như thế, gọi là trước đồng thời tu “Tam ma bát đề” và “Xa ma tha”, sau tu “Thiền na”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước đồng thời tu “Quán” và “chỉ” sau, sau “chỉ, Quán song tu”. – Bồ tát dùng sức biến hóa, khởi ra các công dụng là tu “Quán”, giúp cho tánh rất tịnh là tu “chỉ”, sau đoạn các phiền não là “chỉ, quán song tu”.

17. Trước đồng thời tu “Huệ” và “Ðịnh, Huệ song tu”, sau tu “Ðịnh”.

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức biến hóa, giúp với tịch diệt, sau an trụ nơi tánh định thanh tịnh, không do tạo tác. Bồ tát tu như thế, gọi là trước đồng thời tu “Tam ma bát đề” và “thiền na”, sau tu “xa ma tha”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước đồng thời tu “Quán” và “chỉ, Quán song tu”, sau tu “chỉ”. - Bồ tát dùgn sức biến hóa là tu “Quán”, giúp với tịch diện là “Chỉ, quán song tu”, sau an trụ nơi tánh định thanh tịnh sẵn có, không do tạo tác, là tu “chỉ”.

CÂu “TÁnh Ðịnh thanh tịnh không do tạo tác” là chỉ cho “tu tánh chơn định” sẵn có và thanh tịnh, không do tạo tác mà thành, cũng không phải dụng công tu tập mà được, xưa nay nó vẫn thanh tịnh.

18. Trước “Ðịnh, Huệ song tu” sau tu “định”

-Này thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức tịch diệt (vắng lặng) khởi hạnh rất ịnh, rồi anh trụ nơi thanh tịnh. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Thiền na”, sau tu “Xa ma tha”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ, quán song tu” sau tu “chỉ”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt, khởi tánh rất ịnh là “chỉ quán song tu”m rồi anh trụ nơi thanh tịnh là tu “chỉ”.

19. Trước “Ðịnh, Huệ song tu” sau tu “huệ”.

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt, khởi ra tác dụng, tuy đối các cảnh, mà vẫn tùy thuận nơi tịch tịnh. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Thiền na”, sau tu “Tam ma bát đề”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ quán song tu”, sau tu “Quán”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt khởi ra tác dụng độ sanh là “Chỉ, quán song tu”. Mặc dù bồ tát làm các hạnh lợi sanh mà vẫn tùy thuận nơi tịch tịnh là tu “Quán”.

20.Trước “Ðịnh, Huệ song tu” thư tu “Ðịnh” sau tu “huệ”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt, quán tự tánh các chúng sanh, an trụ nơi Ðịnh, mà vẫn biến hóa các pháp để độ sanh. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Thiền na”, thứ tu “Xa ma tha” sau tu “tam ma bát đề”

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ, quán song tu”, thứ tu “chỉ”, sau tu “Quán” - Bồ tát dùng sức tịch diệt, quán tự tánh các chúng sanh để hóa độ, là “chỉ, quán song tu”; an trụ nơi Ðịnh là tu “chỉ”, biến hóa các pháp để độ sanh là tu “Quán”.

21. Trước “Ðịnh, Huệ song tu” thứ tu “Huệ”, sau tu “Ðịnh”

-Này thiện nam! Nếu có Bồ tát dùng sức tịch diệt của tự tánh vô tác, để khởi ra tác dụng độ sanh, rồi y nơi cảnh giới thanh tịnh mà trở về nơi Ðịnh. Bồ tát tu như thế, thì gọi là trước tu “Thiền na”, thứ tu “Tam ma bát đề”, sau tu “Xa ma tha”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ, Quán song tu” thứ tu “Quán” sau tu “chỉ”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt của tự tánh vô tác, để khởi ra tác dụng độ sanh, là “chỉ, quán song tu”. Bồ tát y nơi cảnh giới thanh tịnh là tu “Quán”, sau trở về nơi Ðịnh là tu “chỉ”.

Chữ “Tự tánh vô tác”, nghĩa là: tự tánh sẵn có không do tạo tác mà thành.

22. Trước tu “thiền na” (Ðịnh, huệ song tu) sau đồng thời tu “Ðịnh và huệ”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt, mỗì mỗi thanh tịnh, an trụ ở nơi Ðịnh, mà khởi ra các món biến hóa. Bồ tát tu như thế, gọi là trước tu “Thiền na”, đồn gt hời tu “Xa ma tha” và “Tam ma bát đề”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước “Chỉ, Quán song tu” sau đồng thời tu “Chỉ” và “quán”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt, mỗi mỗi thanht ịnh là “chỉ, Quán song tu” an trụ ở nơi định là tu “chỉ” khởi ra các món biến hóa là tu “Quán”.

23. Trước đồng thời tu “thiền na” và tu “Ðịnh” sau tu “huệ”

-Này thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt, giúp cho tan1h rất tịnh, sau khởi ra việc biến hóa. Bồ tát tu như thế, gọi là đồng thời tu “Thiền na” và “Xa ma tha” sau tu “Tam ma bát đề”

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước đồng thời “Chỉ, Quán song tu” và tu “Chỉ” sau tu “Quán”. - Bồ tát dùng sức tịch diệt là “Chỉ, quán song tu”, giúp cho tánh tất tịnh là tu “Chỉ”, khởi ra các việc biến hóa là tu “Quán”

24. Trước đồng thời tu “thiền na” và “huệ”, sau tu “Ðịnh”

-Này Thiện nam! Nếu có bồ tát dùng sức tịch diệt giúp việc biến hóa, sau khởi tánh rất tịnh, ở cảnh giới trí huệ trong sáng. Bồ tát như thế, gọi là đồng thời tu “Thiền na” và “Tam ma bát đề” sau tu “Xa ma tha”

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát trước đồng thời “chỉ, quán song tu” và tu “Quán”, sau tu “chỉ”. – Bồ tát dùng sức tịch diệt là “chỉ, quán song tu”, giúp việc biến hóa là tu “Quán”, sau khởi tánh rất tịnh v.v.. là tu “chỉ”.

25. Bồ tát viên tu ba pháp

-Này thiện nam! Nếu có bồ tát dùng huệ Viên giác, viên hiệp các háp, naò tánh, tướng của các pháp đều không rời tánh Viên giác, bồ tát như t hế, gọi là viên tu ba pháp, tùy thuận tánh viên giác thanh tịnh.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này nói Bồ tát viên tu ba pháp

Bồ tát cùng Viên giác huệ, viên hiệp tất cả các pháp. Nào Ðịnh, Huệ và Ðịnh Huệ song tu, nào tánh, tướng của các pháp đều không rời tánh Viên giác.

4. Tóm lại

-Này thiện nam! Ðây là 25 pháp tu của Bồ tát. VẬy các bồ tát phải y theo đây mà tu hành

Nếu các bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, muốn y theo 25 pháp môn này mà tu hành , thì phải giữ giới thanh tịnh, tâm suy nghĩ vắng lặng và phải trải qua 21 ngày thành tâm sám hối, rồi viết 25 pháp môn này vào mỗi miếng giấy, niêm lại kỹ, đem để trên bàn Phật và chí tâm cầu khẩn, rồi tùy tay hành giả rút một miếng giấy, khi mở ra xem thì hành giả sẽ biết trình độ của mình tu pháp Ðốn hay Tiệm. Song nếu hành giả một niệm nghi ngờ, thì chẳng thành tựu.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này Phật kết thúc lại và dạy rằng: Ðây là 25 pháp tu của Bồ tát. Nếu có người muốn tu theo 25 pháp này, thì điều cần yếu là phải giữ giới cho thân tâm được thanh tịnh và chí thành cầu sám hối 21 ngày. Rồi hành giả viết tên 25 pháp tu này vào 25 miếng giáy, xếp gói riêng từ miếng, để chung lại trên bàn. Hành giả phải chí thành cầu nguyện, rồi tùy ý rút ra một thăm, sau khi giở ra xem, hành giả sẽ tự biết căn cơ của mình Ðốn hay Tiệm và p hải y theo đó mà tu hành. Nếu hành giả có một niệm nghi ngờ thì chẳng thành tựu.

Tóm lại, 25 pháp tu này không ngoài định, Huệ và Ðịnh Huệ song tu; chẳng qua tùy theo trình độ của hành giả có sâu cạn, cao thấp không đồng, nên co 1khi phải tu Ðịnh trớc rồi Quán sau; có khi phải tu Quán trước rồi Ðịnh sau; lắm lúc phải tu đồng thời v.v.. Vì tùy theo trình độ của hành giả, mà thay đổi trước sau, xaoy qua trở lại nên thành ra 25 pháp. Vậy hành giả nên tùy theo trình độ của mình mà tu tập

5. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên

Khi đó Ðức Thế Tôn muốn tóm lại nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:

Biện Âm! ông nên biết:

Các trí huệ thanh tịnh

Của tất cả Bồ tát

Ðều do Thiền định sanh

Thiền định là “Chỉ, Quán”

Và “Chỉ, Quán song tu”

BA pháp, phân Ðốn, Tiệm

Thành ra hai mươi lăm

Mười phương các Như Lai

Và hành giả ba đời

Ðều y pháp môn này

Mà đặng thành Bồ đề

Chỉ trừ người đốn ngộ

Và nhữn gngười không tin

Mới chẳng theo pháp này

Còn tất cả bồ tát

Và chúng sanh đời sau

Phải như th ế tu hành

Nhờ Ðại bi của Phật

CÁc ông siêng tu

Sẽ mau chứng niết bàn.

LƯỢC GIẢI

Ðại ý bài kệ này nói: Trí huệ thanh tịnh vô ngại của các bồ tát đều do Thiền định sanh. Thiền định là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu. Bởi theo căn cơ của hành giả có đốn và Tiệm không đồng, nên ba pháp này lại chia ra đến 25 pháp.

Chỉ trừ những bực đốn ngộ và những người không tin, còn chư Phật và các vị Bồ tát cùng chúng sanh đời sau đều tu theo các pháp môn này mà được thành Bồ Ðề.

Vậy hành giả nên y theo đây, siêng năng tu tập và nhờ lòng Ðại bi của Phật gia hộ, sẽ mau chứng Niết Bàn. 

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/02/2019(Xem: 15764)
Bức Tượng Phật ngồi lưng vua độc nhất Việt Nam ở Hà nội, Vua Lê Hy Tông cho tạc tượng đặt trong chùa Hòe Nhai để bày tỏ sám hối vì đã cư xử sai lầm với đạo Phật
19/01/2019(Xem: 4714)
Ngày nay Phật Giáo đã đi vào sinh hoạt thường nhật của người dân Mỹ một cách sâu rộng, từ những giờ phút thực hành Thiền trong quân đội, sở cứu hỏa, ty cảnh sát, trường học và công tư sở đến phương thức trị liệu tâm lý trong y học.
10/12/2018(Xem: 11110)
Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong được sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi. NVT
26/11/2018(Xem: 7536)
4 năm học đó, chỉ là sự tiếp nối của những năm Trung cấp hay cao đẳng trước đó và nó sẽ mở ra cho quý vị, những năm học tiếp theo của hậu đại học bao gồm chương trình thạc sĩ và tiến sĩ… Nhưng, nếu trong 4 năm học này, mà những Tăng Ni sinh nào, học thiếu tinh cần, thì quý vị khó tiến xa hơn trên sự nghiệp tri thức và lại càng khó tiến xa hơn trên sự nghiệp trí tuệ.
25/11/2018(Xem: 4011)
Sắc lệnh bảo vệ đời sống và môi trường thiên nhiên ban ra cách nay 23 thế kỷ
22/10/2018(Xem: 4859)
Viết về lịch sử là một việc làm quan trọng, vì nếu không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại, mà hiện tại không có thì chắc rằng vị lai cũng sẽ không. Do vậy tìm về cội nguồn, gốc rễ của mọi vấn đề là bổn phận của người đi sau, phải tiếp nối bước chân của những người đã đi trước để nối liền dấu vết của quá khứ. Có như vậy dòng chảy của lịch sử mới luôn truyền thừa được.
20/07/2018(Xem: 13867)
Vào tháng 10, mùa đông, nhằm tiết đại hàn, giá lạnh, vua Lý Thánh Tông (1023 – 1072) nói với các quan hầu cận rằng: "Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.” (1)
14/07/2018(Xem: 8624)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật. Nay trên trang website của nước Ấn Độ thống kê Phật giáo chỉ có 0,7 % của dân số Ấn Độ. Quý vị có thể tham khảo trang nhà nước Ấn Độ theo đường nối kết bên dưới.
18/06/2018(Xem: 11651)
Theo học giả Sthiti Das, có 12 nguyên nhân chánh như sau: 1) Giáo đoàn đồi trụy Theo thời gian, phần nhiều các giáo đoàn Phật giáo trở nên đồi trụy. Tăng lữ và tín đồ đã biến chất thành xa hoa và hưởng thụ. Họ tích trữ của cải và vàng bạc, trở nên tham lam và đua đòi vật chất. Rồi họ sống đời vô kỷ luật. Gương xấu và nếp sống bê tha của họ khiến cho dân chúng chán ghét. Người ta không thích đạo Phật nữa.
21/03/2018(Xem: 17504)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]